CHUADUOCSU.ORG
Đạo Tràng Bát Nhã và Kim Cang Giảng Luận
Tỳ-Kheo-Ni HẢI TRIỀU ÂM
ĐẠO TRÀNG BÁT NHÃ
Soạn giả: Bồ-tát Long Thọ.
Hán dịch: Cưu Ma La Thập.
Việt dịch: Hòa-thượng Thích Trung Quán.
Toát yếu: Tỳ-kheo-ni Hải Triều Âm.
KINH TÂM YẾU BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Bồ-tát Quán Tự Tại thực hành sâu xa phép Bát Nhã ba-la-mật-đa. Ngài soi thấy năm uẩn đều không, độ thoát hết thảy khổ ách.
Này Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế.
Này Xá Lợi Tử! Tướng Không của mọi pháp không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt.
Cho nên trong Chân Không không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn thức giới cho đến không có ý thức giới. Không có vô minh cũng không có hết vô minh cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết. Không có Khổ Tập Diệt Đạo. Không có trí tuệ cũng không chứng đắc. Bởi vì vô sở đắc.
Bồ-tát y Bát Nhã ba-la-mật-đa nên tâm không quản ngại. Vì không quản ngại nên không sợ hãi, xa hẳn mộng tưởng điên đảo, đạt tới cứu cánh Niết-bàn.
Ba đời chư Phật y Bát Nhã ba-la-mật-đa nên được đạo quả Vô-thượng chánh đẳng chánh giác.
Cho nên biết Bát Nhã ba-la-mật-đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật không hư.
Vì vậy nói chú Bát Nhã ba-la-mật-đa: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề sa bà ha (3 lần).
– I –
LỰA CHỌN HỌC VIÊN
Đạo tràng là một vườn hoa mà Pháp Chủ có trách nhiệm bón tưới, bắt sâu, tỉa lá. Các thiện hữu tri thức nhận sứ mạng giúp đỡ. Đối với Bồ-tát căn cơ đã vững thì vấn đề này khỏi bàn. Đối với sơ tâm thì đây là vấn đề cần thiết.
Đoàn thể dù ít ỏi (10 người trở xuống) dù đông đảo (30 người trở lên) cũng phải có nội quy kỷ luật sinh hoạt. Đạo tràng Bát Nhã chỉ nên nhận những tín căn dõng mãnh để đủ sức kiên nhẫn. Thật ra thiện căn của mỗi con người phải mắt Phật Tổ mới thấy được. Chúng ta phàm phu khó mà chọn lọc. Như trong đạo tràng của Ngũ Tổ. Ai cũng tưởng ngài Thần Tú thông bác nhất. Vậy mà Tổ lại trao y bát cho ngài Huệ Năng.
Mục đích đạo tràng Bát Nhã là hướng dẫn hành giả phát minh căn bản trí vốn sẵn có của mình, hướng tâm về đạo giải thoát. Người muốn gia nhập phải quyết tâm buông bỏ hết những ràng buộc gia đình xã hội. Chỉ một chí nguyện chân thành cần cầu tu học Phật Pháp, tự giác giác tha cho đến ngày giác hạnh viên mãn. Trên chư Phật chứng minh, dưới mười phương Bồ-tát hộ niệm. Thiên long quỷ thần giúp sức. Các thượng thiện nhân gia tâm hỗ trợ.
Người tu không mong cầu gì hơn là được sống với minh sư, bạn lành để huân tập hạnh đức cao nhã, giảm dần những thói thế gian tham sân kiêu mạn. Cho nên phải chọn người biết quên mình vì đạo, có tinh thần vô úy vị tha. Đạo tràng quan trọng ở phẩm chớ không ở lượng. Nếu nhận những người kém đạo đức thì nội bộ sẽ nhiều hỗn tạp không ổn. Đúng như phương ngôn ta nói: “Một con sâu làm rầu nồi canh”.
Nội dung sinh hoạt cũng như chương trình tu học hướng về chuyển biến tư tưởng phàm phu trở thành tri kiến Thánh Hiền. Ngoài những phương pháp luyện tập ngôn ngữ hành vi cho thuần thiện là bước đầu tiên trong việc tu tâm dưỡng tánh, đạo tràng đặt trọng tâm vào sự phát minh trí tuệ Bát Nhã và tập không quản ngại lao nhọc cần khổ nghĩa là phước tuệ phải song song không thiên lệch. Từ xưa tới nay các bậc cao hiền thạc đức không một vị nào không nhờ công hạnh xả kỷ vị tha.
Ở trong đạo tràng, học viên phải khép mình trong kỷ luật tự giác. Bên ngoài giữ lễ khiêm cung tự hạ, không được hành động theo ý tư riêng. Mỗi lời nói việc làm phải như luật. Nên tự đào luyện cho mình một thói quen tư duy theo chánh pháp như quán bất tịnh, quán lý duyên sanh, quán vô thường, thọ thị khổ v.v… Chúng ta sẽ giải thoát những thủ chấp điên đảo. Tri kiến sẽ dần dần hợp đạo. Khi ấy tự nhiên ngôn ngữ cử chỉ sẽ sẵn sàng vào khuôn khổ như đức Phật đã ấn định. Tâm niệm sẽ an ninh trước những đổi thay vinh nhục mất còn….
HỌC NHỮNG GÌ?
- Vô minh và chân như.
- Bát Nhã vô sở đắc, bất nhị, thật tướng, trung đạo.
Vô minh và Chân như là lý nghĩa căn bản của đại thừa. Mỗi chúng sanh đều đủ 2 phần vọng và chân. Vô minh là cảnh giới của sanh diệt, của hình danh sắc tướng, của phân biệt so đo hơn kém. Nơi đây các pháp đều mang tánh chất vô thường vô ngã.
Chân như cùng vô minh đều sẵn có trong tâm thể chúng sanh, đều được tàng chứa trong A-lại-da thức. Bởi vậy trong các chúng sanh sanh diệt diệt sanh, địa ngục, quỷ thần, bàng sanh, A-tu-la, người, trời, chân như vẫn tròn đầy như Phật Tổ. Không bao giờ khiếm khuyết. Người tạo tội nghịch ác, Phật tánh bị vô minh che lấp, cũng như mây đen che mặt trăng. Trời đất tối mù gọi là không trăng. Thật ra mặt trăng đâu có mất. Đủ duyên lại hiển lộ trong sáng.
Bởi vì tạng thức chúng ta chứa cả 2 phần chân và vọng nên đời sống hằng có những tương quan mâu thuẫn: Niết-bàn sanh tử, thiện ác, khổ vui… Thông thường chúng ta sống nghiêng về một bên. Thiên lệch về thiện đạo thì rất lợi ích nhưng không thể thấy thật tướng của vạn pháp. Vì thế đức Phật lập ra Trung Đạo: Thế giới quan có 2 chủ trương đối lập là Thường và Đoạn. Đức Phật phủ nhận cả 2, đưa ra quan điểm không thường không đoạn. Nhân sinh quan có 2 thuyết Hữu và Vô. Trung đạo chủ trương phi hữu phi vô. Giữa hai nếp sống, phàm phu ham vui hưởng khoái, người tu khổ hạnh ép xác, đức Phật khuyên sống thiểu dục tri túc nhưng đói thì ăn, mệt thì nghỉ.
Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã Ba-La-Mật: “Thế gian chấp thường, Như Lai nói chư hành vô thường. Thiên chúng say đắm ham vui, đức Phật dạy thọ thị khổ. Ngoại đạo kiêu mạn ta đây, Phật dạy vô ngã. Vì hàng phục tăng thượng mạn, Phật nói Niết-bàn tịch tịnh. Vì khiến lìa tham trước, Phật nói Không môn…”.
Qua văn kinh, chúng ta thấy Phật chỉ phương tiện phá chấp để đưa chúng sanh vào chân lý. (Về sau bộ Trung Quán Luận của Bồ-tát Long Thọ dùng Bát Bất giảng rõ câu sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc của Bát Nhã khiến cho người ta nhận được ý nghĩa toàn vọng tức chân. Những mâu thuẫn trở nên tương thành chớ không tương đoạt. Những vấn đề thế gian và xuất thế gian đều được quán thông:
Bất sanh diệc bất diệt,
Bất thường diệc bất đoạn,
Bất nhất diệc bất dị,
Bất lai diệc bất xuất,
Năng thuyết thị nhân duyên
Thiện diệt chư hý luận).
HỌC THẾ NÀO?
Ngã chấp (phiền não chướng) và pháp chấp (sở tri chướng) là hai quả núi ngăn chặn đường giải thoát. Vì thế phải học làm sao cho tỉnh ra. Bước đầu hãy vì đạo quên mình. Tâm tâm nhớ rằng học để buông xả. Nếu cố chấp chỗ thấy biết đó là vô tình đắp thêm ngã chấp, thành tăng thượng mạn. Đức Phật đủ lời quở trách ngã ái. Ta có thực hành lời dạy của Ngài không? Ta đã tập xả bỏ những thói quen vị kỷ chưa? Tự hỏi như thế để tập hổ thẹn mà gắng công mỏng dần ngã kiến. Đó là lối học khôn ngoan, thật ích. Học đạo trên căn bản vô ngã mới không lạc về ba đường ác khổ, đỡ bị rơi vào bẫy ma.
Văn tuệ rất cần, ai cũng biết. Tư tuệ, đem nghĩa lý kinh pháp khế hợp và thể nghiệm trong đời sống tu hành. Ví dụ như học Bát Nhã thì ở tình cảnh nào cũng tập thấy rõ “sắc tức là không, không tức là sắc”. Làm sao cho Bát Nhã chính là máu thịt và hơi thở của mình chớ không phải là cái gì xa vời trừu tượng. Tư tưởng mỗi ngày chuyển theo chánh pháp. Đến khi cố gắng không còn khó khăn nhọc nhằn, đó là nhờ tư tuệ mà phàm trí đã thành chánh trí. Rồi từ lý tưởng chuyển sang thực hành. Những kinh nghiệm rút ra góp thành tu tuệ. Có học có hành mới có thật ích. Mải mê theo sách vở, bận rộn với chữ nghĩa suông, thật là đáng tiếc. Tu không chứng ngộ là ăn bánh vẽ. Kiến lý mà không thể nhập, giảng thuyết mà không thực hành, không tự hưởng lợi ích rốt ráo.
HỌC VỚI AI?
Kinh Bát Nhã, phẩm Cung Kính Thiện Tri Thức, Tu Bồ Đề hỏi: “Ai là thiện tri thức của Bồ-tát?”. Phật đáp: Chư Phật Thế Tôn giáo hóa các Bồ-tát, đưa vào Bát Nhã ba-la-mật.
Y văn kinh, chúng ta biết thiện tri thức phải là người đã giác ngộ chân lý, đã sống với chân lý, muốn giúp đỡ mọi người được tỉnh thức như mình, để giảm bớt phiền não khổ nạn. Thiện tri thức phải có tinh thần bình đẳng, từ bi, không vụ lợi. Thọ pháp với những bậc như vậy, chúng ta vào đạo dễ dàng.
Cái hại do ác tri thức gây ra chẳng thể lường. Chẳng những người tu lạc bước mà còn hư hoại thiện căn, tiêu mòn Phật chủng. Ơn khai ngộ còn lớn hơn ơn sanh thành vạn bội nên bổn phận đệ tử đối với Thầy, kinh sách có nói nhiều.
Riêng đối với bạn đồng học, Phật dạy phải coi nhau như Phật, tưởng như bậc Thầy, đồng chung một xe, cùng đi một đường.
Nếu Bồ-tát nghe thậm thâm Bát Nhã ba-la-mật mà nói rằng: “Pháp này chính ta còn chưa thể tột đến. Các ngươi nghe làm gì?”. Người này đã bị ác ma gia hại.
Hoặc nói: “Ta đã y ly, các ngươi không có công đức vô lậu này”. Khi ấy ác ma hớn hở. Cầu Phật đạo mà cùng với các Thanh-văn đua tranh, cùng với các Bồ-tát đua tranh. Ác ma có phương tiện. Người chẳng được thọ ký sân giận người được thọ ký, ác khẩu mắng nhiếc. Ác ma vui mừng.
Không ai lường được hậu quả của ác ma. Nhưng nếu giác tỉnh kịp thời thì có thể cứu vãn:
- Chí thành sám hối, quyết tâm xa lìa ác tri thức.
- Từ bi tha thứ lỗi lầm người khác. Lấy tình thương chân thật đối xử, lấy đức độ cảm hóa. Tin tưởng chỉ hạnh đức mới cải đổi hoàn cảnh xấu, mới chuyển được tâm người ác. Tuyệt nhiên không nương dựa vào thế lực bên ngoài.
- Dùng trí tuệ Bát Nhã quán chiếu mọi sự việc đều giả tạm, không thật có, nên buông xả oán thù cừu hận, cũng không đa mang say đắm.
- Tin tưởng tha lực. Chư Phật Bồ-tát, Hộ Pháp Tôn Thần, Thiên Long Tám Bộ, hằng che chở ủng hộ người tu hành.
- Đọc tụng kinh điển, tĩnh tâm trì chú, một lòng niệm Phật.
HỌC VỚI MỤC ĐÍCH GÌ?
Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba-La-Mật, phẩm 20, Thâm Tâm Cầu Bồ Đề:
Này Tu Bồ Đề! Nếu Bồ-tát muốn được Vô-thượng Bồ-đề phải gần thiện tri thức. Sáu ba-la-mật chính là thiện tri thức của Bồ-tát. Muốn vào sâu trí minh liễu, đoạn trừ tất cả nghi, cần học Bát Nhã ba-la-mật.
– Thế nào là tướng Bát Nhã ba-la-mật?
– Này Tu Bồ Đề! Vô ngại là tướng Bát Nhã ba-la-mật.
Vậy chỗ mong cầu của Bồ-tát là Vô-thượng Bồ-đề, là đi sâu vào trí minh liễu để được vô ngại đối với vạn pháp. Kinh chia 3 Phật quả:
- Đi qua chùa ngả nón cúi đầu, niệm Nam mô Phật, ấn tống kinh, vẽ tượng Phật, thảy đều sẽ được Vô-thượng Bồ-đề. Sau này sẽ đủ thiện duyên. Công đức sẽ phát triển cho đến khi viên mãn.
- A-la-hán, Bồ-tát đã ngộ lý nhất thừa v.v… vô số kiếp sau sẽ chứng đắc.
- Bồ-tát nhất sanh bổ xứ thị hiện tám tướng thành đạo.
Vậy thì hàng Phật tử ai chẳng có sẵn quả Vô-thượng Bồ-đề mà sao cứ cho là một thứ xa xôi, không dám mong cầu. Quyết tâm cầu Phật quả, chúng ta tự thấy rõ nơi mình sẽ đến, thấy rõ những việc cần phải làm. Chứng ngộ là tối quan trọng. Tu không cầu chứng như trồng cây không mong ăn trái. Giáo lý Phật đà còn tồn tại ở thế gian là nhờ các Tổ và liệt vị Cao Tăng đắc đạo. Các ngài đích thân thể hiện Pháp-thân, đem lợi ích cho đời và gây niềm tin cho hậu thế.
Chúng ta ban đầu phải có sở đắc sở chứng để tiến tới. Được rồi mới quán như huyễn mà không chấp.
Căn bản phải biết:
- Tứ luân:
- Giáo (học kinh Bát Nhã Ba-la-mật).
- Lý (chân không bất không).
- Hạnh (thực hành sâu xa pháp Bát Nhã Ba-la-mật).
- Quả (chứng vô sanh pháp nhẫn là tới bờ kia).
- Tứ nghĩa:
1) Tín (căn bản trí hay Bát Nhã trí, ai ai cũng có).
2) Giải (chân không diệu hữu).
3) Tu (quán chiếu thật tướng).
4) Chứng (từ căn bản trí thành tựu nhất thiết trí).
Tóm lại, học viên của đạo tràng Bát Nhã không nên chấp Thiền bỏ Tịnh, không nên kỳ thị pháp này hay hơn pháp kia, chớ cho tiểu thừa là nhỏ, chớ lầm riêng trọng đại thừa. Phải nhớ pháp nào cũng là phương tiện, như huyễn như hóa, tùy duyên diệu dụng.
– II –
GƯƠNG HẠNH NGƯỜI XƯA
TỊNH YẾT THIỀN SƯ
Người đất Hoàng Dương (Trung Hoa). Nhân xem họa đồ địa ngục, phát tâm xuất gia, giới hạnh tinh nghiêm, tham cứu bộ Đại Trí Độ Luận. Nghe bên Thiên Trúc có các phạm Tăng, Sư một mình vượt núi băng ngàn đến đất Vị Âm, 10 năm theo học một thiền sư. Trở về đất Trung Nam, chỉ đem theo một chiếc võng, không am không cốc, không đồ chúng, lâng lâng hưởng thú thanh bần. Sư giáo hóa một số người cùi lác, ghẻ lở, máu mủ tanh hôi. Sư không nhờm gớm, lân mẫn từ ái, khiến lòng người mến mộ. Mười phương đồ chúng kéo về quá đông. Phải tìm các khe rãnh tận dưới núi để lấy nước dùng. Một đêm bỗng có tiếng hổ gầm. Rạng ngày thấy trên đất có vết chân hổ cào, có dấu nước ướt. Học chúng vội đào. Mạch nước vọt lên tràn đầy. Người sau khen rằng: “Tích cốc tỵ thể, bạo hổ bàu tuyền”. Nghĩa là cây tích trượng gõ vào núi đá, bày ra hang sâu ở đó nương thân. Theo dấu chân cọp tìm ra suối nước uống.
Đến đời Châu Võ, vua tôn sùng đạo Lão, phế bỏ đạo Phật. Bao nhiêu Tăng sĩ đứng lên khuyên can cũng không được lại còn mua họa vào thân. Sư Tịnh Yết nghe tin, không nỡ ngồi yên, rời núi về yết kiến vua. Sư nói từ sáng đến ngọ, sắc mặt oai nghiêm, lý luận vững chắc. Vua sai các quan tha hồ biện bác cùng Sư. Bị số đông áp đảo, Sư vẫn không đổi nét mặt. Vua vẫn ngồi im. Cuối cùng chư Tăng tuyệt thực để phản đối. Vua mặc cho chết. Sư dẫn 40 đệ tử vào núi Trung Nam, vùng hoang vắng, ẩn trong hang sâu.
Trong khi ấy, vua phá hủy tất cả chùa am, danh lam thắng cảnh cho đến của tư gia cũng đều hoại hết. Tượng Phật bằng kim khí đem nấu chảy để đúc vật dụng. 80.000 cơ sở của chùa, ban phát cho các vương công sửa làm nhà ở. Bắt buộc Thích tử hoàn tục. Tài sản Tam-bảo dùng để thưởng cho người có công phá hoại.
Sư Tịnh Yết ẩn náu trong hang sâu, đau buồn vì chánh pháp đắm chìm, Tăng Ni không nơi nương tựa. Ngài soạn 20 quyển, danh đề là Tam Bảo, sự lý rõ ràng dễ hiểu, trao cho các đệ tử biên chép, giữ gìn giấu kỹ. Mong sau có dịp đem ra phục hưng chánh pháp. Còn Sư tự cấm túc trong hang. Một hôm thác việc cho thị giả xuống núi, Ngài ngồi kết già trên đá bàn, lấy dao bén tự lóc thịt mình từng mảnh, rải trên đá cho kiến trùng. Mổ bụng kéo ruột ra treo trên cành cây cho dã thú. Chỉ còn trơ một bộ xương không còn dính tí thịt. Hai tay bưng trái tim. Thị giả trở về, thấy Sư an nhiên ngồi như vậy, vội chạy đi thông báo. Ai nấy hốt hoảng trở về, thấy bộ xương ngồi kết già, quay mặt về hướng Tây. Sư vẫn bưng trái tim trong tư thế cúng dường Tam-bảo. Có điều lạ là không hề có máu. Chỉ toàn sữa thơm ngưng đọng đây kia trên đá. Năm ấy Sư 45 tuổi.
Một đệ tử ưu tú là Samôn Huệ Kiên muốn dựng bia tháp, len lỏi trong các đường mòn tìm nơi dựng tháp, bắt gặp một bài kệ của Sư đề trên vách đá: “Các bậc hữu duyên hãy nên vui vẻ an trụ trong Phật Pháp, chớ thoái tâm mà mất phước lợi. Tôi học cổ Thánh biết thân này vô ích nên tán thể cúng dường. Nguyện cầu tất cả chúng sanh, Trời, người, A-tu-la, Sơn thần, Thọ thần, những người theo đạo Phật, trông thấy hài cốt tôi, nghe biết tôi xả thân, đều giải thoát vĩnh viễn phiền não sanh tử. Ai nghe tôi xả mạng, sẽ có thiên nhĩ, cứu cánh Bồ-đề. Ai nhớ nghĩ đến tôi sẽ đầy đủ niệm lực, đa văn tổng trì. Báo thân tan rã, bốn đại thí khắp. Cầm thú côn trùng ăn thịt uống máu này, thiện căn sẽ sung túc. Nguyện tôi đời sau sớm thành Phật quả, thân tâm tự tại, phước trí cứu đời. Thân bất tịnh dưới chứa phân nhơ. Chín lỗ tuôn chảy toàn những ô uế. Da mỏng bao máu thịt. 32 thể trược do nghiệp duyên hóa hiện. Thân vô thường khắm thối giam nhốt kẻ ở tù. Thân này không chút vui, trăm bệnh đem đau đớn như kẻ thù. Lại còn nhiệt não sanh ra bao lỗi lầm. Thân này vô ngã, mê hoặc phàm phu, vọng đảo sai khiến, tan hoại thiện căn. Đã từ vô thủy sống chết như loài vật. Trăm ngàn thân đã mất. Xương nếu còn hẳn chất cao bằng núi Thái. Máu nếu chứa lại ắt đầy biển lớn. Luống đã chịu bao nhiêu khổ nạn, chẳng lợi ích cho Phật Pháp cũng chẳng giúp gì cho chúng sanh. Nay chịu đau xả thân, thề ra khỏi tứ lưu sâu thăm thẳm. Nguyện đạo Bồ-đề không thoái lui. Cầu sanh Tịnh-độ. Nhất niệm hoa sen nở. Được thấy Phật A Di Đà. Chánh đạo quyết định, thần thông tự tại, chứng quả vô sanh. Sống với Pháp-thân, không lạc đường ma. Việc đầu tiên là hộ pháp. Nguyện đầy đủ Thập Địa. Bỏ thân tù ngục được thân tự tại, vào khắp các thú, tùy nơi lợi ích, cứu vớt chúng sanh, cùng lên ngôi Pháp vương. Vì thế dứt nghiệp ngày hôm nay”.
TỲ-KHEO-NI ƯU BA TIÊN LA
Trưởng lão Xá Lợi Phất tọa thiền ở trong rừng gần bên thành Vương Xá. Bỗng nghe tiếng gọi lớn từ một cái hang đối diện. Ngài Xá Lợi Phất vội chạy tới. Tỳ-kheo-ni thưa: Tôi đang ngồi thiền bị rắn cắn. Độc khí hiện tràn khắp mình, khiến tôi không thể cử động. Xin trưởng lão từ bi thỉnh đại chúng đến cho tôi cáo biệt.
– Tôi thấy sắc diện cô không thay đổi mà! Nếu rắn độc cắn thì đâu được thế.
– Bởi vì thân bốn đại giả hợp, năm uẩn vô thường. Rắn độc làm sao cắn được cái Chân Không. Nhục thể tuy đau khổ nhưng tuệ mạng vẫn duy trì.
Đại chúng vân tập. Tỳ-kheo-ni chỉ còn là một xác chết nhưng tư thế vẫn như một người vô sự nhập Niết-bàn. Trưởng lão Xá Lợi Phất nhân đó khai thị đại chúng: “Người học đạo hành đạo, biết phương pháp điều hòa tâm niệm. Khi chết mừng như buông xả được cái bát chứa độc, như bệnh nặng từ nay bình phục vĩnh viễn. Đã có tu hành chắc chắn sẽ có thiện báo. Đã có thệ nguyện ắt hẳn thành tựu. Con mắt trí tuệ thấy rõ thật tướng của thế gian nên coi việc rời thân tứ đại như được thoát ly nhà lửa. Vị này hiện tại đang được thọ hưởng những điều vui đẹp không thể nghĩ bàn”.
– III –
YẾU CHỈ TU CHỨNG
Nếu chúng ta không thông suốt vấn đề tu chứng, làm sao đạt đến kết quả? Tu mà không có mục đích, khác gì ngồi trên ghe vượt biển mà không biết mình đi đâu.
Tu chứng Bát Nhã nghĩa là dùng tâm vô niệm để tương ưng với tánh Chân Không. Hễ tâm vô niệm thì tánh Chân Không hiện tiền. Khi tánh Chân Không hiện tiền thì căn trần thức giới, sanh tử Niết-bàn, đều tiêu vong. Hành giả không trụ tâm nơi nào vì biết rằng bốn đại năm uẩn, pháp thế gian hay xuất thế gian, đều bất khả đắc. Tâm không trụ vào đâu là tâm giải thoát tự tại, vì đã rũ sạch bốn tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Ngã chấp pháp chấp không còn tồn tại. Tổ Huệ Năng dạy: “Niệm niệm tự thấy bổn tánh, tự tu tự hành, tự thành Phật đạo”.
Vậy thì Giác và Mê chỉ có một ranh giới vô hình. Ở đệ nhất niệm gọi là giác. Lạc vào đệ nhị niệm liền mê. Ở đệ nhất niệm thì tâm vô niệm nên thanh tịnh, ứng hợp với chân như. Nếu bất giác vô minh vọng động, lạc vào đệ nhị niệm, ý thức phân biệt tiến tới mất còn, vinh nhục, v.v… tức là ta đã vào mê hồn trận của vô minh, không biết ngày nào thoát ra được.
Nếu giác tỉnh, dùng trí Bát Nhã quán chiếu tự tánh các pháp vô ngã vô thường. Năm ấm chỉ nương vào tâm thể mà lưu hiện, như sóng nương vào nước mà có. Gió yên thì sóng sẽ lặng, trở về nước. Hết duyên thì sắc trở về tâm. Tâm đây chính là Tánh Không của vạn pháp. Tánh Không này, ở hữu tình gọi là Phật tánh, là tánh bổn cụ (vốn sẵn đủ). Sắc và Không là hiện tượng và bản thể. Hữu vi là dụng. Vô vi là thể của hữu vi.
Tâm còn trụ thì còn sợ hãi. Nếu trụ vào thân thì cùng thân quản ngại sự mất còn. Trụ vào pháp thì sợ đổi thay sanh diệt. Trụ vào sanh tử thì ước mong Niết-bàn. Trụ vào Niết-bàn thì chán sanh tử. Tâm vô trụ mới tự tại. Có trí tuệ Bát Nhã chẳng còn bao xa sẽ tiến lên quả vị Phật.
Bài kệ Tổ Đạo Tín truyền cho Tổ Hoằng Nhẫn, xương minh lý Chân Không Bất Không của Bát Nhã:
Giống hoa có tánh sống.([1])
Nhân đất, hoa nẩy mầm. ([2])
Duyên lớn cùng Tín hợp. ([3])
Đương sanh, sanh chẳng sanh. ([4])
Chân Không là tâm chân như bất sanh bất diệt mà đức Phật đã dầy công khai thị, tức là thật tướng Bát Nhã. Chủng tử Phật sẵn có nơi chúng sanh như hạt hoa. Đủ duyên hạt Bồ-đề sẽ nẩy mầm. Vai trò của duyên quan trọng chẳng kém nhân. Người tu phải khéo tạo hoàn cảnh cho mình, tìm môi trường thuận lợi cho việc tu tập.
Tu mà không thấy mình tu, hành mà chẳng thấy mình hành, chẳng cầu sở đắc, cứ tùy duyên nhậm vận. Không vướng mắc vào cảnh, tâm thức an định dễ sống hợp với chân tâm thể tánh (trí Bát Nhã thường chiếu).
PHƯƠNG TIỆN TU TẬP
1/- Văn tự Bát Nhã.
- Thấu hiểu danh hiệu kinh Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa là việc cần yếu.Thật thể của kinh, thật tướng Bát Nhã, tức là tánh linh giác, thường trụ diệu minh bất động chu viên. Tất cả hữu tình bản lai sẵn đủ.Tông chỉ: Quán chiếu cả sắc và tâm. Nhờ quán chiếu chân thể hiển bày.Lực dụng: Độ nhất thiết khổ ách vì lắng sạch mọi tình chấp chúng sanh.Giáo tướng: Kinh Đại Bát Nhã, Phật giảng nói 16 hội, ròng rã 22 năm, kết tập thành 600 quyển. Kinh này dung thông tất cả tiểu thừa và đại thừa, hiển và mật, thiền và giáo, tánh và tướng, sự và lý.
2/- Quán chiếu Bát Nhã.
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, sanh diệt giả huyễn. Bản thể là Chân Không. Nếu cảnh giới sai biệt tự tịch lặng thì như như trí tỏ hiện. Quán chiếu Bát Nhã ngộ tự tâm, không cần trải qua thứ bậc, không cần vô lượng kiếp tu hành.
3/- Thật tướng Bát Nhã.
Bồ-tát an trụ nơi các pháp chân như, khéo biết tất cả căn tánh sai biệt của chúng sanh, thấu suốt trí dụng sai biệt của mọi loài, dùng mọi phương tiện độ tận chúng sanh mà chẳng thấy có chúng sanh nào được độ. Ấy là song tu Bi Trí, dung thông Lý Sự. Nên gọi là “Quán Tự Tại hành thâm Bát Nhã ba-la-mật-đa”. Hành thâm là tu đủ Lục Độ. Thật ra chỉ có 5 thiện pháp là bá thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định. Năm pháp này muốn đạt tới rốt ráo đều phải được soi sáng bởi trí Bát Nhã mới thành thiện pháp xuất thế vô lậu. Nên gọi chung là 6 ba-la-mật. Trong kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật, phẩm Chúc Lũy, đức Phật bảo: “Anan! Bồ-tát học sáu ba-la-mật này sẽ được Vô-thượng Bồ-đề”.
Người hành trí tuệ Chân Không, đời nay giác tỉnh, mai sau làm Phật. Người quán Chân Không làm vô lượng bá thí, trì giới, kiên nhẫn, tinh tấn, thiền định. Khác hẳn với tà kiến chấp không, đoạn hết căn lành. Hiện đời là kẻ ác, mai sau vào địa ngục.
Cũng chẳng phải thiên-không của nhị thừa. Quan sát thấy thế gian hư vọng, sanh tử oan gia, liền buông xả hết, không đoái tình cứu vớt chúng sanh còn chìm mê trong luân hồi, lo chứng nhập Niết-bàn để tự lợi.
Trí tuệ Bát Nhã biết căn trần thức huyễn hóa nên sẵn sàng buông xả của cải tình ái, hy sinh cả bản thân, tự lợi lợi tha, kiếp này sang kiếp khác, không cùng không tận.
LƯỢC TRUYỆN NGÀI AN THẾ CAO
(Tác giả kinh Bát Đại Nhân Giác, 8 điều giác ngộ của các Bồ-tát)
Ngài An Thanh pháp hiệu Thế Cao, là thái tử nước An Túc. Từ nhỏ đức hạnh và trí tuệ đã siêu phàm. Vua cha qua đời, Ngài kế vị cho tới khi mãn tang rồi nhường ngôi cho chú, xuất gia. Học thông kinh điển, cùng lý tận tánh, chứng Tam Minh. Ngài nói: “Đời trước tôi đã xuất gia. Người bạn đồng tu tánh hay hờn giận. Tôi đã hết sức khuyên bảo. Vì có mối oan nghiệp đời trước tôi phải đi để đền nợ. Trước khi ra đi tôi đã căn dặn: “Chỗ học và tu của bạn đáng chứng quả trên tôi nhưng nếu không xả nghiệp hờn giận thì sau này sẽ phải chịu quả báo xấu ác, bạn nên cẩn thận”. Trong nước hồi ấy đang giặc giã rối loạn. Tôi gặp ngay lưỡi dao của một thiếu niên. Đền xong mối oan nghiệp với lòng vui vẻ, thần thức đầu thai làm người tức là thân Thế Cao hiện nay”.
Thế Cao du hóa tới Trung Quốc, đến Giang Nam. Ngài cùng đi với đoàn lái buôn tất cả 30 chiếc thuyền. Phải đỗ lại ở miếu Kỳ Đình Hồ để cúng dường vì miếu này oai linh lắm. Thần giáng dạy rằng: “Dưới thuyền có Samôn, xin mời lên”. Khách buôn ngạc nhiên, thỉnh Thế Cao lên miếu. Thần từ dưới hương án ló đầu ra. Đây là một mãng xà rất lớn, bảo Thế Cao rằng: “Ta ngày xưa ở nước ngoài, cùng Thầy xuất gia. Vì tật giận hờn phải đọa làm thần. Ta hưởng phước lộc tại đây, cai trị cả ngàn dặm. Nay gặp bạn đồng học, lòng ta vừa tủi vừa mừng. Tủi vì thân thể xấu xa khiến người kinh sợ. Mừng vì bạn đã chứng quả có thể giúp ta việc lớn. Bởi vì thân sau ta e còn sa đọa địa ngục. Nay có nhiều báu quý, cảm phiền Thầy vì ta dựng lập một bảo tháp, giúp ta được về đường lành”.
Thế Cao hướng về mãng xà đọc thần chú và những bài kệ giác tỉnh. Mãng xà nước mắt như hai dòng suối chảy, giây lát ẩn mất. Thế Cao vì thần mua đất lập một ngôi chùa.
Thế Cao trở về nơi xưa, tìm người trẻ tuổi đời trước đã hại mình. Người này nghe Thế Cao nhắc lại chuyện ấy, tỏ ý rất ăn năn, quy y theo Ngài. Thế Cao nói: “Tôi còn dư báo phải về Hội Khê trả nợ”. Người này tình nguyện theo Ngài đến Hội Khê. Vừa vào tới chợ thì gặp hai phe đánh nhau. Thế Cao bị lỡ đánh nhằm vào đầu, chết tại chỗ. Đệ tử chứng kiến cuộc trả báo, lo chôn cất thi hài, xây tháp cúng dường và thuật nói khắp gần xa sự duyên nhân quả ba đời của ngài Thế Cao để cảnh sách quần chúng.
Nhân quả là quy luật quan yếu. Sơ cơ hậu học chúng ta, trong thời mạt pháp, càng phải bồi dưỡng tín tâm, kham nhẫn tất cả hoàn cảnh ngõ hầu tiến tới bất thoái. Nếu trừ bỏ vọng chấp ta người, quán chiếu chân cảnh, thì tâm và đạo âm thầm khế hợp gọi là lý nhập. Còn hạnh nhập thì có 4:
- Báo oán hạnh: Gặp nghịch cảnh không lo buồn vì tin nhân quả.
- Tùy duyên: Khổ vui đều do nhân duyên sanh, vô tánh. Biết thế nên tâm được tự tại.
- Vô sở cầu: An phận, không tham đắm vì đã quán lý không.
- Xứng pháp hạnh: Nhân không, pháp không, câu không. Hành trì các pháp mà không chấp sở hành. Chỉ xứng tánh mà hành động.
Lý và Hạnh là hai giềng mối vào đạo do Tổ Đạt Ma truyền. Cần thường tự hỏi: Bước đường tu chứng chúng ta đã quyết tâm chưa? Đã tận dụng phương pháp đúng cơ hợp lý chưa? Đã nỗ lực gia công chưa? Đã thật noi gương cổ đức tiền hiền chưa?
Văn Kết
Lẽ tất nhiên hành giả phải tận tình công phu quán chiếu để thấy rõ vạn pháp đều không. Bồ-tát cũng chẳng chấp không mới được vô sở đắc. Từ quán chiếu Bát Nhã, Bồ-tát được thật tướng Bát Nhã. Được thật tướng Bát Nhã rồi, Bồ-tát siêu vượt các pháp hữu vô và cả trung đạo, nghĩa là đạt đến đây rồi không còn nhiễm trước các pháp. Tùy duyên diệu dụng thuyết giảng, hóa độ vô số chúng sanh, an nhiên tự tại, tùy thời tùy cảnh, không vướng mắc không quản ngại. Tuy giảng nói muôn pháp cạn sâu rộng hẹp mà không pháp nào có thật. Như tạm mượn ngón tay để chỉ mặt trăng, tạm mượn tàu bè giúp đưa đến Bảo Sở, tạm mượn pháp để chỉ Chân Tâm thật tướng. Có chịu rời bỏ những trợ duyên phương tiện, hành giả mới đạt đến lực dụng Bát Nhã tự tại vô ngại. Kinh thường nói Bát Nhã vô tri, vô sở bất tri; Bát Nhã vô kiến, vô sở bất kiến. Bồ-tát thâm tu Bát Nhã, thông suốt cả sự lý tánh tướng, thường ở trong cảnh giới chân không.
Tuy ở cảnh giới chân không, Bồ-tát thấy rõ chân không bất không. Sắc tức là không, không tức là sắc; tướng tức là tánh, tánh tức là tướng; sóng tức là nước, nước tức là sóng. Thật tướng không ngoài vạn pháp. Bao nhiêu phân biệt vọng tưởng điên đảo liền tan.
Bởi thế niềm an vui trường tồn vĩnh cửu không phải ngoài Tục Đế riêng có. Phải ở ngay Tục Đế, mỗi người tự giác tự ngộ, tự cảm nhận niềm vui thanh tịnh an lạc của Chân Đế. Hết gió thì sóng thức hết lao chao, trở về nước là chân tâm bản thể. Phiền não tức Bồ-đề. Sanh tử tức Niết-bàn. Kinh nói:
“Tất cả mọi người nên học Bát Nhã, nên hành trì Bát Nhã. Tất cả mọi người trong thế gian đều có đủ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh”.
[1] Nói về nhân, hạt hoa chứa mầm sống.
[2] Nói về duyên, gặp đất hạt thành cây.
[3] Diệu lý nhân duyên tạo cả vũ trụ vạn hữu.
[4] Bởi thế pháp không tự tánh, đương thể tức không. Chân không là bản thể của vạn hữu.
KIM CANG GIẢNG LUẬN
Tam tạng Pháp sư Cưu-Ma-La-Thập Hán dịch
Thái tử Chiêu Minh đời Lương phân khoa
Hòa-thượng Thích Thanh Từ giảng luận
Tỳ-kheo-ni Hải Triều Âm toát yếu
Lời Mở Đầu
Kinh nói: “Chúng sanh không phải chúng sanh”. Vì duyên hợp nên không chủ thể. Lại nói “gọi là chúng sanh” vì giả tướng giả danh hiện tiền. “Thế giới không phải thế giới” vì duyên hợp không chủ thể. Nhưng chúng ta đang sống trên thế giới, chẳng thể nói không nên vẫn tạm “gọi là thế giới”. Trí tuệ Bát Nhã dạy sống theo trung đạo, chẳng nghiêng lệch chấp có hoặc chấp không.
Diệu dụng kinh Kim Cang là chặt đứt mọi tà kiến đưa về quả vị Phật.
Giảng tại Thiền viện Thường Chiếu
Mùa an cư 1992
Quý Sư cô Thuần Tịnh, Thuần Chơn ghi từ băng
KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT KINH
Kim cang là một loại đá quý rất cứng, phá được tất cả mà không thứ nào phá được nó.
Bát Nhã: Trí tuệ. Ba la mật: Đến bờ kia (cứu cánh viên mãn). Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật: Trí tuệ vững chắc thấu suốt chân lý, thấy rõ thật thể của vạn pháp, chiếu rọi kiến hoặc, phá tan kiến chấp, dẹp sạch mê tín ngoại đạo. Kinh Kim Cang dùng chánh kiến đưa chúng ta lên bờ giải thoát và giác ngộ.
Kinh: a) Khế lý (đúng với sự thật).
b) Khế cơ (hợp với khả năng con người).
1. Pháp hội nguyên do
Đức Phật ngự ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, Tinh xá Cấp Cô Độc cùng với 1250 đại Tỳ-kheo. Tới giờ, đức Thế Tôn đắp y mang bát vào thành khất thực. Trở về, Ngài thọ trai xong, dẹp y bát, rửa chân rồi trải tòa ngồi trước đại chúng.
Buổi khai pháp giản dị có ý thâm sâu đánh tan những thói hiếu kỳ. Chân lý ở ngay trong đời sống hàng ngày. Tìm những mầu nhiệm ở ngoài các việc bình thường là lạc hướng.
Lý Tướng hỏi ngài Dược Sơn: Thế nào là đạo? – Mây ở trời xanh. Nước trong bình.
Triệu Châu hỏi ngài Nam Tuyền: Thế nào là đạo? – Tâm bình thường là đạo.
2. Khải thỉnh
Trưởng lão Tu Bồ Đề bày vai áo bên phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính: Bạch Thế Tôn, rất hiếm có, khéo hộ niệm các Bồ-tát, khéo phó chúc các Bồ-tát. Thiện nam thiện nữ phát tâm Vô-thượng chánh đẳng chánh giác nên làm sao trụ, làm sao hàng phục vọng tâm?
Tu Bồ Đề: Phiên âm từ chữ Phạn. Tàu dịch là Thiện Hiện. Khi ông sanh ra, bao nhiêu kho lúa kho tiền trong nhà bỗng nhiên rỗng không, mãi lâu sau mới hoàn như cũ. Thầy bói bảo rằng: Đây là điềm Thánh nhân giáng thế.
Kinh khác gọi ngài là Không Sanh vì ngài mới sanh ra đã đạt lý Không, thâm hiểu nghĩa Bát Nhã.
Cũng có nơi gọi ngài là Cát Tường vì ngài là một vị A-la-hán thường được Phật sai giảng Bát Nhã cho các hàng Bồ-tát. Nêu biểu trí Bát Nhã là đức Văn Thù. Văn Thù là chữ Phạn. Tàu dịch là Cát Tường.
Chánh giác: Giác tỉnh thoát ly luân hồi. Chánh đẳng: Giác ngộ tánh Phật đồng thể, Thánh phàm bình đẳng.Vô-thượng: Hoàn mãn tự giác giác tha.
Hàng phục vọng tâm và an trụ chân tâm là 2 vấn đề then chốt của đại thừa. Hộ niệm: Bảo vệ chánh kiến. Phó chúc: Giao phó, dặn dò, làm thế nào đưa chúng sanh vào Phật đạo.
3. Chánh tông đại thừa
Phật bảo Tu Bồ Đề: Bồ-tát nên như thế này hàng phục tâm: Bao nhiêu chúng sanh (đẻ trứng, đẻ thai, sanh chỗ ẩm ướt, hóa sanh, có hình không hình, có tưởng không tưởng, phi tưởng phi phi tưởng) ta đều khiến vào vô dư Niết-bàn. Diệt độ như thế vô lượng chúng sanh mà thật không chúng sanh được diệt độ. Vì nếu Bồ-tát còn chấp tướng ngã nhân chúng sanh thọ giả tức chẳng phải là Bồ-tát.
Tướng ngã: Nhận vọng thân vọng tâm (5 ấm) là ta.
Tướng nhân: Thấy mọi người là có thật.
Tướng chúng sanh: Thấy các loài có thật.
Tướng thọ giả: Thấy mỗi chúng sanh có mạng sống trong một thời gian.
Phật trả lời câu thứ 2 trước vì dĩ nhiên vọng tâm hàng phục rồi chân tâm mới hiển lộ như mây có tan trăng mới tỏ.
Niết-bàn: Diệt độ. Theo tiểu thừa thì chứng A-la-hán, được vô sanh là được Niết-bàn hữu dư. Tới khi xả thân, hết hình lụy, gọi là Niết-bàn vô dư. Theo đại thừa thì chứng A-la-hán được Niết-bàn hữu dư. Chứng quả vị Phật được Niết-bàn vô dư.
Bồ-tát nói đủ là Bồ-đề tát đỏa. Bồ-đề: giác tỉnh. Tát đỏa: hữu tình. Bồ-tát hữu tình đã giác tỉnh, không còn mê chấp 4 tướng.
4. Diệu hạnh vô trụ
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Bồ-tát không nên trụ sắc thanh hương vị xúc pháp mà bá thí. Bồ-tát không trụ tướng bá thí, phước đức như mười phương hư không, không thể suy lường. Bồ-tát phải như lời dạy mà trụ.
Buông xả 6 trần, xứng tánh từ bi bình đẳng tu lục độ vạn hạnh. Hàng phục vọng tâm, an trụ bản tánh vô sanh là việc làm của Bồ-tát theo lời Phật dạy.
5. Như chân lý thấy đúng thật
Này Tu Bồ Đề, có thể do thân tướng thấy Như Lai chăng?
– Bạch Thế Tôn, không. Như Lai đã nói thân tướng tức không phải thân tướng. – Này Tu Bồ Đề, phàm đã có tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai.
Đức Phật 32 tướng tốt xuất thế ở Ấn Độ mà hiện nay chúng ta đang tượng hình để thờ là hóa thân Phật. Chữ Như Lai trong kinh là Pháp-thân Phật. Pháp-thân là cái thể linh quang vô sanh bất diệt sẵn có nơi tất cả hữu tình, từ Phật đến chúng sanh, bốn Thánh sáu phàm đều đầy đủ. Đức Phật đã dạy chúng ta nhận xét: Phàm đã có hình tướng đều sẽ tan hoại nên đây dẫn chứng, chính hóa thân Phật cũng vô thường. Kinh Lăng Nghiêm dạy Pháp-thân là bản thể của vạn pháp. Nơi hữu tình gọi là Phật tánh, nơi vô tình gọi là pháp tánh. Cho nên ở ngay vạn pháp, cứ thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai. Bằng cách ấy chẳng những chúng ta thấy được đức Thích Ca thật mà một khi không còn vọng tưởng điên đảo chạy theo sáu trần, ảo hóa lặng rồi thì ông Phật của ta, con người thật của ta hiện tiền. Nhà thiền gọi là minh tâm kiến tánh.
6. Người chánh tín rất hiếm
Tu Bồ Đề: Bạch Thế Tôn, chúng sanh nghe thế có tin chăng?
– Sau khi Như Lai diệt độ, khoảng 500 năm, ai trì giới tu phước có thể tin những chương cú này. Được như vậy phải do đã gieo trồng căn lành nơi vô lượng ngàn muôn đức Phật. Lòng tin thanh tịnh là không còn chấp tướng ngã nhân chúng sanh thọ giả nên một niệm phước đức vô lượng. Nếu còn chấp pháp tức còn chấp ngã nhân chúng sanh thọ giả. Nếu còn chấp phi pháp tức còn chấp ngã nhân chúng sanh thọ giả. Do vậy Như Lai thường nói: Tỳ-kheo các ông nên biết, pháp ta nói dụ như chiếc bè. Pháp còn nên xả huống chi phi pháp.
Pháp: đúng. Phi pháp: sai. Biết phân biệt phải trái là có trí tuệ. Nhưng thật trí tuệ thì phải biết đúng hay sai là pháp tương đối. Chẳng nên khư khư cố chấp.
Lời Phật dạy trong các kinh là thuốc trị bệnh. Cần xét kỹ mình có bệnh gì thì tìm đúng thuốc mà uống. Đừng như ngài Anan để đức Văn Thù phải quở:
“Dục lậu bất tiên trừ, đa văn thành quá cữu” (tham ái là gốc đọa lạc không lo trừ ngay, không lấy đây làm việc khẩn cấp đầu tiên thì học rộng biết nhiều thành lỗi lầm). Nghe kinh cần biết ứng dụng để tu. Không nên bám vào ngôn ngữ. Nếu cho tụng đọc là cứu cánh rồi thì bị kẹt không thể tiến bộ.
Đến bờ thì phải bỏ bè để lên bờ. Nếu vác bè lên bờ thì bè chẳng những vô ích mà còn chướng ngại. Phật dạy Thanh Văn gấp cầu Niết-bàn vì thế gian vô thường vô ngã. Cốt ý đưa họ ra khỏi luân hồi. Chứng A-la-hán rồi thì phải xả pháp Tiểu thừa để tiến lên học Bồ-tát hạnh. Khư khư thủ chấp lối cũ ắt mất tiến thủ.
Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật: Chúng sanh mò trăng đáy nước đến nỗi chết chìm, thật là đáng thương! Phật đáp: Thật thế, nhưng đáng thương hơn nữa là những kẻ chấp rằng vũ trụ không trăng.
Mò trăng đáy nước: Chúng sanh tham đắm sáu trần đến nỗi chết đuối trong dòng sông sanh tử. Chấp vũ trụ không trăng: Thủ chấp pháp Tiểu thừa, không tin cảnh giới thường lạc ngã tịnh của Đại thừa.
Đến bờ thì phải bỏ bè nhưng nếu chưa đến bờ mà đã vội bỏ bè thì hiểm nguy. Hóa Thành là đường tới Bảo Sở. Đây là lời nói chân thật.
Chưa tới bờ đã vội bỏ bè hay đến bờ mà còn cố giữ chiếc bè khiến chẳng thể đi lên. Cả 2 trường hợp đều tránh mới là sáng suốt.
7. Vô đắc, vô thuyết
Này Tu Bồ Đề, Như Lai được Vô-thượng chánh đẳng chánh giác chăng? Như Lai nói pháp chăng?
– Qua nghĩa Phật dạy, như chỗ con hiểu, không có pháp nhất định tên là Vô-thượng chánh đẳng chánh giác cũng không có pháp nhất định Như Lai có thể nói. Vì pháp của Như Lai không thể thủ chấp, lời nói hư giả, chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp. Vì sao? Tất cả Hiền Thánh đều do pháp vô vi mà có sai biệt.
Nếu còn thấy có pháp là còn chấp 4 tướng. Vậy pháp Vô-thượng chánh đẳng chánh giác có thật không? Giác là đối với mê mà nói. Tâm không còn chấp 2, không thấy việc thành Phật, đó mới thật là thành Phật. Trong 4 quả Thanh Văn, ba ngôi đầu là Hiền. A-la-hán vô sanh mới gọi là Thánh. Đại thừa xếp tất cả 10 Tín, 10 Trụ, 10 Hạnh, 10 Hồi Hướng vào ngôi Hiền. Từ Sơ Địa trở lên mới tôn xưng là Thánh vì bắt đầu chứng Pháp-thân vô sanh bất diệt. Vậy rõ ràng, rời pháp hữu vi là Hiền, sống với pháp vô vi là Thánh.
Vô vi hay chân tâm là danh từ khác của Pháp-thân. Ngay nơi pháp vô vi này tùy chỗ vào còn cạn hay sâu mà thành ngôi vị khác nhau, chớ không căn cứ ở các pháp hữu vi hư vọng, các sự tướng tùy duyên.
8. Y chánh pháp xuất sanh quả vị
– Này Tu Bồ Đề, dùng bảy báu đầy tam thiên đại thiên thế giới bá thí, phước đức nhiều chăng?
– Bạch Thế Tôn, rất nhiều. Vì phước đức không thể-tánh nên gọi là nhiều.
– Nếu thọ trì diễn giảng một bài kệ bốn câu ở kinh này, phước đức còn hơn vì tất cả chư Phật và pháp Vô-thượng chánh đẳng chánh giác đều từ kinh này ra. Này Tu Bồ Đề, chỗ gọi là Phật Pháp ấy tức chẳng phải là Phật Pháp.
Nhiều là đối với ít. Phước đức tùy theo nhân duyên mà có nên không thật tánh. Phước đức của tài thí nhiều đến đâu rồi cũng hết. Thọ trì kinh Kim Cang, sống với trí tuệ Bát Nhã là thể tánh vô sanh bất diệt thì phước đức hẳn không tận. Thí dụ: Mỗi sớm mai, sương đọng trên cỏ lá, lóng lánh khác gì kim cương. Nhưng hỏi giá trị bao nhiêu triệu giọt sương có thể bằng một hạt kim cương người ta thường dùng để nạm nhẫn?
Hỏi: Pháp có trước hay Phật có trước?
Đáp: Nói thì Phật trước pháp sau. Nghe thì Phật sau pháp trước. Bởi vì Phật ngộ đạo rồi mới nói pháp. Còn chúng ta nay nghe kinh rồi tu hành sau mới thành Phật. Trí tuệ Kim Cang Bát Nhã vô sanh bất diệt, ai cũng sẵn có. Quên nó là chúng sanh. Nay ngộ được nó thì thành Phật nên nói kinh sanh ra Phật.
Phật Pháp mượn ngôn từ để tuyên dương nên cũng chỉ là tướng duyên hợp, một phương tiện để cảnh tỉnh thế gian. Danh từ Phật Pháp cũng vì chúng sanh mà tạm giả đặt ra.
9. Chỉ một tướng là không tướng
– Này Tu Bồ Đề, Tu-đà-hoàn có nghĩ: Ta được quả Tu-đà-hoàn chăng?
– Bạch Thế Tôn, không. Vì Tu-đà-hoàn tên là Nhập Lưu (vào dòng Thánh) mà không chỗ vào. Chẳng vào sắc thanh hương vị xúc pháp mới gọi là Tu-đà-hoàn.
– Này Tu Bồ Đề, Tư-đà-hàm có nghĩ: Ta được quả Tư-đà-hàm chăng?
– Bạch Thế Tôn, không. Vì Tư-đà-hàm tên là Nhất Vãng Lai mà thật không qua lại mới gọi là Tư-đà-hàm.
– Này Tu Bồ Đề, A-na-hàm có nghĩ: Ta được quả A-na-hàm chăng?
– Bạch Thế Tôn, không. Vì A-na-hàm tên là Bất Lai mà thật không chẳng lại mới gọi là A-na-hàm.
– Này Tu Bồ Đề, A-la-hán có nghĩ: Ta được quả A-la-hán chăng?
– Bạch Thế Tôn, không. Vì thật không có pháp tên A-la-hán. Nếu khởi nghĩ ta được quả A-la-hán tức còn chấp ngã nhân chúng sanh thọ giả.
Bạch Thế Tôn! Phật nói con được Vô tránh tam-muội là đệ nhất trong loài người, là bậc A-la-hán ly dục đệ nhất. Con nếu khởi nghĩ “Ta được A-la-hán đạo”, Thế Tôn ắt không nói Tu Bồ Đề ưa hạnh A Lan Na. Vì Tu Bồ Đề thật không sở hành mới gọi là Tu Bồ Đề ưa hạnh A Lan Na.
Một tướng: Tánh vô sanh có thật nhưng không tướng mạo. Vừa khởi niệm thấy mình nhập lưu liền không phải là Tu-đà-hoàn; thấy mình vãng lai liền không phải là Tư-đà-hàm; thấy mình bất lai liền không phải là A-na-hàm; thấy mình được Thánh quả liền không phải là A-la-hán.
Tu-đà-hoàn: Trải bảy lần sanh tử sẽ chứng A-la-hán. Tư-đà-hàm: Chỉ một lần sanh tử sẽ chứng A-la-hán. A-na-hàm: Bất lai, ở cõi trời rồi sẽ chứng A-la-hán, không sanh về nhân gian nữa. A-la-hán: Vô sanh.
Tu-đà-hoàn: Nhập lưu: Vào dòng Thánh. Đã ra khỏi đất phàm tức không dính mắc sáu trần. Như Huệ Năng nghe kinh đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” liền bật lên: “Ai có dè xưa nay tâm ta vẫn đầy đủ”. Thế là được Tổ Hoàng Mai truyền y bát. Huệ Năng vào dòng Thánh vì đã ngộ được tánh vô sanh, không dính mắc đến sáu trần tướng.
A Lan Na: Hạnh tịch tĩnh, yên lặng. Không sở hành: Không dấy động, không khởi niệm sanh diệt.
Như trên, dù là tiểu thừa cũng phải chứng được tâm vô sanh mới gọi là tới Thánh vị.
10. Trang nghiêm Tịnh-độ
– Này Tu Bồ Đề, Như Lai xưa nơi Phật Nhiên Đăng có đắc pháp không?
– Thưa không.
– Này Tu Bồ Đề, Bồ-tát trang nghiêm cõi Phật chăng?
– Bạch Thế Tôn, không. Vì chẳng phải trang nghiêm thế gọi là trang nghiêm.
– Tu Bồ Đề, các đại Bồ-tát sanh tâm thanh tịnh như thế này: Không nên trụ sắc sanh tâm, không nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm. Nên vô sở trụ mà sanh tâm. Này Tu Bồ Đề, người thân như núi Tu-di chúa có lớn không?
– Bạch Thế Tôn, lớn lắm. Vì Phật nói chẳng phải thân, thế gọi là thân lớn.
Văn trên A-la-hán tự thấy đắc đạo là còn chấp 4 tướng. Thì đây nếu Phật tự thấy đắc đạo hẳn cũng chưa thành Phật. Nên Tu Bồ Đề xác định Phật không hề đắc pháp.
Gieo nhân công hạnh lục độ. Ngày sau thành Phật cảm quả báo cõi đất trang nghiêm, thân to lớn không thể nghĩ bàn. Nhưng nếu còn trụ vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, tức chưa phải là Bồ-tát, chẳng phải trang nghiêm cõi Phật. Nên không chỗ trụ, sống với tâm vô sanh bất diệt mới là Bồ-tát trang nghiêm cõi Phật.
11. Phước vô vi hơn cả
Này Tu Bồ Đề, trong sông Hằng có bao nhiêu cát. Mỗi hạt cát tính là một con sông. Số cát ở những sông này nhiều không?
– Bạch Thế Tôn! Nhiều lắm. Sông đã vô số huống chi cát.
– Này Tu Bồ Đề, ta bảo thật ông! Bá thí bảy báu đầy ba ngàn đại thiên thế giới nhiều bằng số cát ấy, phước đức nhiều không?
– Bạch Thế Tôn, nhiều lắm.
– Thọ trì diễn giảng một bài kệ bốn câu kinh này phước đức nhiều hơn!
Ngày xưa có một nàng công chúa tuổi mới lên 8. Một buổi sáng mùa hạ, trời mưa to. Những giọt nước rơi mạnh xuống thềm nổi lên những bong bóng trắng xóa. Công chúa đòi Hoàng hậu cho một xâu chuỗi bong bóng ấy để đeo cổ và khóc thét lên khi Hoàng hậu từ chối. Cả hoàng cung dỗ sao cũng không nín. Một lão quan trong triều tình nguyện xâu chuỗi cho công chúa. “Thỉnh công chúa lựa cái bong bóng nào vừa ý rồi đưa để già xâu”. Công chúa vui vẻ chộp. Qua kẽ tay, bong bóng này vỡ, bong bóng kia vỡ. Hàng giờ đi qua, không sao nắm được một chiếc lên tay. Chán nản, giận dỗi, công chúa phụng phịu: “Không thèm chơi với bong bóng nữa”. Công chúa bỏ, đi vào. Vua trao cho một xâu chuỗi kim cương. Công chúa mững rỡ đeo ngay vào cổ.
Hạnh phúc thế gian là như thế. Vừa giơ tay nắm bắt, nó đã tan qua kẽ ngón tay. Từ 15 tuổi trở lên chúng ta như nàng công chúa hăng say lựa bong bóng nước. Khoảng 60 trở lên chúng ta mới biết chán. Nhà vua dụ cho đức Phật dạy chúng ta học kinh Kim Cang để biết rằng công đức vô vi là hơn cả.
12. Tôn trọng chánh giáo
– Này Tu Bồ Đề, tất cả thế gian, trời người A-tu-la nên cúng dường như Phật, tháp miếu, những nơi có giảng nói kinh này, dù chỉ một bài kệ bốn câu. Huống lại có người thọ trì đọc tụng. Nên biết người này thành tựu pháp tối thượng đệ nhất hiếm có. Nơi nào có kinh này ắt có Phật hoặc tôn trọng đệ tử.
Kinh này chỉ thẳng cái chân tâm vô sanh bất diệt nên giá trị không gì sánh được. Tuy nhiên nếu chỉ để thờ thì vô thượng thậm thâm trở thành vô dụng. Nên cần người đọc tụng, tìm hiểu, đem ra ứng dụng trong sự tu hành. Lời dạy cao siêu tuyệt đỉnh của Phật có khả năng đưa loài người lên ngôi vị Hiền Thánh nên phải trọng kinh và người trì kinh.
13. Như pháp thọ trì
Tu Bồ Đề: Bạch Thế Tôn! Kinh này tên gì? Chúng con phụng trì thế nào?
– Kinh này tên kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật. Các ông nên y theo tên ấy mà thọ trì. Này Tu Bồ Đề, Bát Nhã ba la mật tức không phải Bát Nhã ba la mật. Thế gọi là Bát Nhã ba la mật. Này Tu Bồ Đề, Như Lai có nói pháp chăng?
– Bạch Thế Tôn, không.
– Này Tu Bồ Đề, số bụi ở tam thiên đại thiên thế giới có nhiều không?
– Thưa rất nhiều.
– Như Lai nói bụi chẳng phải bụi, ấy gọi là bụi. Thế giới chẳng phải thế giới, ấy gọi là thế giới. Này Tu Bồ Đề, có thể do ba mươi hai tướng thấy Như Lai chăng?
– Bạch Thế Tôn, không. Vì Như Lai nói ba mươi hai tướng, chẳng phải ba mươi hai tướng, ấy gọi là ba mươi hai tướng.
– Này Tu Bồ Đề, bá thí thân mạng nhiều như cát sông Hằng, phước đức không bằng thọ trì một bài kệ bốn câu của kinh này.
Y tên phụng trì: Dùng trí tuệ Bát Nhã suốt thấu, hàng phục căn trần thức hư vọng. Cứ thế tiến tu lục độ cho tới bờ kia.
Còn dùng ngôn thuyết là còn giả danh, giả tướng, không phải thật thể. Nay tùy thuận thế gian tạm lập danh là Bát Nhã Ba La Mật.
Vì vô pháp nên không có nói pháp. Vì vô ngã nên không có Như Lai 32 tướng. Thân 32 tướng còn giả thì thân chúng ta làm sao thật. Nên đem bao nhiêu hư giả bá thí cũng không bằng bá thí một bài kệ khiến người ta nhận được trí tuệ kim cang chân thật vô sanh bất diệt.
14. Tịch diệt lìa tướng
Tu Bồ Đề hiểu sâu nghĩa thú, nước mắt như mưa: Bạch đức Thế Tôn! Thật là hiếm có. Phật nói kinh điển sâu xa. Con đã được tuệ nhãn mà chưa từng nghe. Với kinh này, ai có lòng tin thanh tịnh, ắt sanh thật tướng, thành tựu đệ nhất công đức hy hữu. Bạch Thế Tôn, thật tướng tức không phải tướng, Như Lai tạm gọi là thật tướng.
Nay con tin hiểu thọ trì. Việc này còn dễ. Năm trăm năm về sau, ai nghe kinh này tin hiểu thọ trì mới thật là ít có. Vì không chấp ngã nhân chúng sanh thọ giả, lìa tất cả tướng tức là Phật rồi.
– Đúng thế! Đúng thế! Rất hiếm người nghe kinh này không hãi không sợ.
Này Tu Bồ Đề! Như Lai nói đệ nhất ba la mật tức không phải đệ nhất ba la mật, ấy gọi là đệ nhất ba la mật. Nhẫn nhục ba la mật tức không phải nhẫn nhục ba la mật, ấy gọi là nhẫn nhục ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Xưa kia bị vua Ca Lợi chém chặt thân thể, ta không chấp ngã nhân chúng sanh thọ giả nên không sân giận. Vì thế Bồ-tát phải lìa tất cả tướng mà phát tâm Vô-thượng chánh đẳng chánh giác. Chẳng nên trụ sắc thanh hương vị xúc pháp sanh tâm. Nên sanh tâm không chỗ trụ. Nếu tâm có trụ ắt nơi phi trụ. Vì vậy Phật dạy Bồ-tát không trụ sắc bá thí, chỉ vì lợi ích tất cả chúng sanh mà bá thí. Như Lai nói tất cả các tướng tức không phải tướng, tất cả chúng sanh tức không phải chúng sanh.
Này Tu Bồ Đề! Như Lai là bậc chân thật, như ngữ, không dối trá, không khác lời! Như Lai được pháp, pháp này không thật không hư.
Tu Bồ Đề! Bồ-tát trụ pháp bá thí như người ở trong tối ắt không thấy gì. Bồ-tát không trụ pháp bá thí như người có mắt ở trong ánh sáng mặt trời, thấy rõ các hình sắc.
Tu Bồ Đề, đời sau, thiện nam thiện nữ thọ trì đọc tụng kinh này. Như Lai ắt thấy người ấy. Vô lượng vô biên công đức người này thành tựu chỉ có trí tuệ Như Lai mới rõ biết.
Thật tướng tức là phi tướng, vô tướng. Không là đối với có. Có đã chẳng thật thì không cũng giả. Tánh giác không tướng mạo nên nói thật tướng phi tướng. Tin kinh này một cách đứng đắn thì trong không còn chấp ngã, nhân… Ngoài biết tất cả cảnh không thật. Trí tuệ chiếu soi, biết các pháp hư vọng. Các pháp không làm loạn thì thật tướng tức chân tâm hiển lộ, gọi là sanh thật tướng.
Chấp là mê, lìa là giác nên nói lìa tướng tức là Phật. Buông ra là Phật. Vậy thành Phật đâu có khó. Sao chúng ta cứ cam phận chúng sanh chịu chìm đắm trong biển khổ luân hồi sanh tử?
Ba la mật: Đến bờ kia (cứu cánh, viên mãn). Danh từ tuyệt đối cũng chỉ là giả lập để so sánh với tương đối. Cũng còn là thấy 2. Nên chẳng qua tạm mượn ngôn từ thế gian mà gọi là đệ nhất ba la mật.
15. Trì kinh công đức
Này Tu Bồ Đề, buổi sáng đem hằng sa thân mạng bá thí, buổi trưa đem hằng sa thân mạng bá thí, buổi chiều đem hằng sa thân mạng bá thí, như thế trải vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp. Phước đức không bằng nghe kinh Kim Cang lòng tin không nghịch. Huống còn thọ trì, đọc tụng, viết chép, diễn giảng.
Tu Bồ Đề, kinh này công đức vô biên không thể nghĩ lường. Như Lai vì những tâm đại thừa mà nói, vì những tâm tối thượng thừa mà nói. Thọ trì, đọc tụng, diễn giảng, công đức không thể lường, không thể tính, không có bờ mé, không thể nghĩ bàn. Đây là gánh vác Vô-thượng chánh đẳng chánh giác của Như Lai. Vì người ưa pháp nhỏ, chấp ngã nhân chúng sanh thọ giả, không thể lắng nghe thọ trì, đọc tụng, diễn giảng kinh này.
Này Tu Bồ Đề, kinh này tức là tháp Phật. Tất cả trời người A-tu-la đều phải cung kính lễ bái, hương hoa cúng dường.
Biết rõ vọng thân, vọng tâm, vọng cảnh là hư dối, đó là hiểu kinh Kim Cang. Biết trí tuệ Bát Nhã vô sanh bất diệt là chân tánh của mình, đó là tin kinh. Sống theo lời kinh dạy là trì kinh.
16. Tịnh nghiệp chướng
Tu Bồ Đề, thọ trì đọc tụng kinh này mà bị khinh chê là do tội nghiệp đời trước đáng đọa đường ác. Nay bị khinh chê thì tội xưa tiêu diệt, sẽ được quả Vô-thượng chánh đẳng chánh giác.
Tu Bồ Đề, quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp, nơi Phật Nhiên Đăng, ta đã cúng dường thờ phụng tám trăm bốn ngàn muôn ức na do tha Phật. Nhưng công đức này trăm phần chẳng bằng một ngàn muôn ức phần, cho đến toán số thí dụ đều không thể bằng, về đời mạt pháp sau này, thọ trì đọc tụng kinh Kim Cang.
Tu Bồ Đề, công đức thọ trì kinh Kim Cang, nếu ta nói đủ, người nghe sẽ cuồng loạn hồ nghi không tin.
Tu Bồ Đề, kinh này nghĩa không thể nghĩ bàn nên quả báo không thể nghĩ bàn.
Nghĩa không thể nghĩ bàn: Chân tâm vô sanh bất diệt, Pháp-thân ở khắp mười phương, thời gian không gian chẳng chi phối được. Người thế gian chẳng thể nghĩ biết huống chi nói tới.
Trì kinh này bằng cách đọc tụng chữ nghĩa là văn tự Bát Nhã. Dùng trí soi xét là quán chiếu Bát Nhã. Sống với trí tuệ vô sanh bất diệt là thật tướng Bát Nhã. Đem lời Phật tùy duyên giác tỉnh chúng sanh là phương tiện Bát Nhã.
17. Cứu cánh vô ngã
Tu Bồ Đề: Bạch Thế Tôn! Phát tâm Vô-thượng chánh đẳng chánh giác làm sao an trụ, làm sao hàng phục vọng tâm?
– Diệt độ tất cả chúng sanh mà không một chúng sanh thật diệt độ. Vì nếu Bồ-tát còn chấp ngã nhân chúng sanh thọ giả, ắt không phải là Bồ-tát. Vì thật không có pháp phát tâm Vô-thượng chánh đẳng chánh giác. Này Tu Bồ Đề, Như Lai nơi Phật Nhiên Đăng có pháp được Vô-thượng chánh đẳng chánh giác chăng?
– Bạch Thế Tôn, qua nghĩa Phật nói, như chỗ con hiểu, Phật ở nơi Phật Nhiên Đăng không có pháp được Vô-thượng chánh đẳng chánh giác.
– Đúng thế, đúng thế! Nếu có pháp được Vô-thượng chánh đẳng chánh giác thì đức Phật Nhiên Đăng đã không thọ ký cho ta rằng: “Đời sau, ông sẽ thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni. Như Lai là nghĩa Như của các pháp. Như Lai được Vô-thượng chánh đẳng chánh giác việc này không thật không hư. Thế nên Như Lai nói tất cả pháp đều là Phật Pháp. Tất cả pháp, không phải tất cả pháp, ấy gọi là tất cả pháp. Này Tu Bồ Đề, thí như thân cao lớn.
– Bạch Thế Tôn! Như Lai nói thân lớn, không phải thân lớn, ấy gọi là thân lớn.
– Này Tu Bồ Đề! Bồ-tát nói: Ta sẽ diệt độ vô lượng chúng sanh, ắt không phải Bồ-tát vì thật không có pháp tên Bồ-tát. Phật dạy: Không ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Này Tu Bồ Đề, nếu Bồ-tát nói ta trang nghiêm cõi Phật tức chẳng phải Bồ-tát. Vì trang nghiêm, chẳng phải trang nghiêm, ấy gọi là trang nghiêm. Tu Bồ Đề, Bồ-tát thông đạt vô ngã vô pháp, Như Lai gọi là chân thật Bồ-tát.
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Khoan nói đến chúng sanh ở đâu đâu. Hãy quay về nhìn lại tâm mình. Mỗi niệm là một chúng sanh. Tỉnh giác đừng nhận là mình, niệm tự tan. Thế là đã đưa chúng sanh ấy về đến chỗ vô sanh. Nhìn lại không còn một chúng sanh nào. Niệm không khởi, đâu còn tướng ngã nhân chúng sanh thọ giả. Không chấp bốn tướng thì tham sân si không còn. Thế nên muốn hàng phục tâm mình đến chỗ an trụ viên mãn thì phải độ tất cả chúng sanh. Mở kinh Phật dạy hàng phục rồi dạy an trụ. Nay kết thúc thì hàng phục là an trụ. Làm được 2 việc này mới thật là Bồ-tát.
Như Lai là nghĩa Như của các pháp: Nếu đối cảnh mà như như không động tức là Như Lai. Đây là nói cho dễ hiểu. Thật nghĩa là câu kinh Pháp Hoa: “Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ” (Như). Tổ thêm 2 câu: “Xuân đến trăm hoa nở, oanh hót trên cành liễu” (Lai).
Tất cả pháp đều là Phật Pháp. Thí dụ bị một người kêu tên ra chửi. Nổi sân là phiền não, là phi pháp. Nếu coi họ là Bồ-tát đang kích thích sự tu hành của mình. Nhân đó mình cám ơn và không giận. Dùng trí Bát Nhã quán tam luân không tịch, ta người và câu chửi đều không, bản tánh thanh tịnh. Câu chửi của người kia trở thành Phật Pháp đưa ta đi lên.
Thành phố phồn hoa, nhiều người đẹp, ô tô, nhà lầu v.v… có chướng ngại sự tu hành không? Chướng ngại là tại ngoại vật hay tại lòng tham của mình? Biết vọng tưởng điên đảo là cái đáng sợ thì hàng ngày lo trị nó là xong. Ngài Văn Thù bảo Thiện Tài: “Lên núi tìm cây cỏ thuốc đem về!”. Thiện Tài đi một lúc về thưa: “Chẳng có thứ nào là thuốc cả”. Ngài Văn Thù lại bảo: “Thế thì xem thứ nào không phải thuốc đem về”. Thiện Tài đi một lúc về thưa: “Xét kỹ thì mỗi thứ chữa một bệnh, nên thứ nào cũng là thuốc cả”. Câu chuyện được ghi trong sách có nghĩa rằng: Với Thầy thuốc hay thì thứ nào cũng là thuốc. Với người không biết thì thứ nào cũng vô dụng. Muốn thấy tất cả pháp đều là Phật Pháp phải nhìn bằng con mắt Bát Nhã.
Tất cả pháp đều tuần nghiệp giả hiện không thật. Nhưng thuận theo thế gian tạm gọi là tất cả pháp.
Lục độ vạn hạnh lợi ích chúng sanh với trí tuệ Bát Nhã trong không chấp ngã, ngoài không chấp pháp, tâm không mong cầu, thì tuy không định tâm trang nghiêm Tịnh-độ mà thật là đang trang nghiêm.
18. Đồng một thể
– Này Tu Bồ Đề, Như Lai có nhục nhãn không?
– Thưa có.
– Này Tu Bồ Đề, Như Lai có thiên nhãn không?
– Thưa có.
– Này Tu Bồ Đề, Như Lai có tuệ nhãn không?
– Thưa có.
– Này Tu Bồ Đề, Như Lai có pháp nhãn không?
– Thưa có.
– Này Tu Bồ Đề, Như Lai có Phật nhãn không?
– Thưa có.
– Này Tu Bồ Đề, cát sông Hằng, Như Lai có gọi là cát không?
– Thưa, gọi là cát.
– Mỗi hạt cát tính là một sông Hằng. Cát của những sông Hằng ấy nhiều chăng?
– Bạch Thế Tôn, rất nhiều.
– Trong các cõi Phật nhiều bằng số cát ấy, tất cả chúng sanh có bao nhiêu tâm, Như Lai đều thấy biết. Vì những tâm ấy chẳng phải tâm chỉ tạm gọi là tâm. Này Tu Bồ Đề, quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc.
Nhục nhãn: Mắt thịt của phàm phu.
Thiên nhãn: Mắt trời thấy thật xa và thật nhỏ.
Tuệ nhãn: Mắt Thánh Thanh-văn thấy vạn pháp vô thường, vô ngã, khổ và không.
Pháp nhãn: Mắt Bồ-tát thấy thể vô sanh của vạn pháp.
Phật nhãn: Mắt Phật: Cái thấy viên mãn.
Phật đủ 5 mắt: Cái thấy của Phật không thể lầm lẫn. Phật dạy: Bao nhiêu thiện ác, cao thấp, rộng hẹp, đẹp xấu, nhiễm tịnh phân cách muôn loài đều do vọng tâm. Dẹp vọng thì chân hiện. Chân tâm, Phật và chúng sanh bản lai đồng thể bình đẳng.
19. Pháp giới thông hóa
– Này Tu Bồ Đề, đem bảy báu đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới bá thí, phước đức nhiều chăng?
– Bạch Thế Tôn, rất nhiều.
– Nếu phước đức có thật. Như Lai chẳng nói phước đức nhiều. Vì phước đức không, nên Như Lai nói được phước đức nhiều.
Triết lý Kim Cang chủ trương vạn pháp là không. Nhiều ít là tùy duyên giả tạm. Cộng bao nhiêu số 0 cũng chỉ thành số 0.
20. Lìa sắc lìa tướng
– Này Tu Bồ Đề, có thể do đầy đủ sắc thân mà thấy Phật chăng?
– Bạch Thế Tôn, không. Vì Như Lai nói đầy đủ sắc thân tức chẳng phải đầy đủ sắc thân, ấy gọi là đầy đủ sắc thân.
– Này Tu Bồ Đề, có thể do đầy đủ các tướng mà thấy Phật chăng?
– Bạch Thế Tôn, không. Vì Như Lai nói các tướng đầy đủ tức chẳng phải đầy đủ, ấy gọi là các tướng đầy đủ.
21. Năng thuyết sở thuyết đều không
Này Tu Bồ Đề, chớ bảo Như Lai khởi nghĩ: Ta sẽ nói pháp. Nói thế là phỉ báng Phật. Không hiểu nghĩa ta đã nói. Nói pháp, không pháp có thể nói, gọi là nói pháp.
– Bạch Thế Tôn, vị lai chúng sanh nghe thế có tin chăng?
– Chẳng phải chúng sanh, chẳng phải chẳng chúng sanh. Này Tu Bồ Đề, Như Lai nói chẳng phải chúng sanh ấy gọi là chúng sanh.
Thân 32 tướng là bốn đại giả hợp. Lời nói phát ra là do động tĩnh của miệng lưỡi. Âm thanh thâu vào là do lỗ tai nhận được làn sóng âm ba. Tàng thức ghi những âm hưởng thành những pháp trần ta có thể ôn lại. Chung quy chỉ là một mớ duyên khởi rồi diệt. Người nói, pháp nghe đều ảo huyễn.
Tướng chúng sanh là tuần nghiệp tùy duyên giả hiện một thời gian. Thật tướng là Như Lai Tạng diệu chân như. Ai ai thật thể cũng là Phật.
22. Vô pháp khả đắc
Tu Bồ Đề: Bạch Thế Tôn, được Vô-thượng chánh đẳng chánh giác là không được gì ư?
– Đúng thế! Đúng thế! Nơi Vô-thượng chánh đẳng chánh giác không một chút pháp có thể được. Như thế gọi là Vô-thượng chánh đẳng chánh giác.
Đây phá chấp có chứng có đắc. Nhưng kinh chỉ phá chấp chớ không phá pháp. Các bậc Thầy dẫn đạo dĩ nhiên phải đốc thúc hậu lai theo gót Phật Tổ tinh tấn tu chứng pháp môn này, cầu đắc pháp môn kia. Kinh Kim Cang chỉ nhắc quý ngài vô ngã vô pháp là nền tảng Thánh giáo. Như vì biết thân thể là bốn đại giả hợp, là báo chướng sanh, già, bệnh, chết, nên Bồ-tát bá thí tất cả mà không thấy có sự hy sinh. Có trí tuệ Bát Nhã như thế, hạnh bá thí mới có thể viên mãn (ba la mật).
– Mỗi khi bị sỉ nhục, Bồ-tát có trí Bát Nhã biết âm thanh huyễn vọng nên chẳng có nhục nào mà phải nhẫn. Có thế hạnh nhẫn nhục mới có thể viên mãn (ba la mật đa).
– Như vậy nương Bát Nhã, Bồ-tát tu pháp môn nào cũng tới chỗ thành công rốt ráo mà không hề thấy ta có chứng, có đắc. Tánh Kim Cang chúng sanh sẵn đủ không do tu mà được.
23. Tâm trong sạch làm việc thiện
– Này Tu Bồ Đề, pháp bình đẳng không cao thấp gọi là Vô-thượng chánh đẳng chánh giác. Y công thức không ngã nhân chúng sanh thọ giả, tu tất cả pháp lành tức được Vô-thượng chánh đẳng chánh giác. Này Tu Bồ Đề, Như Lai nói pháp lành tức chẳng phải pháp lành, ấy gọi là pháp lành.
Tâm trong sạch: Không chấp ngã, chấp pháp. Bình đẳng: Chúng sanh nào cũng sẵn đủ chánh nhân Phật tánh (tánh biết) nên đều có khả năng thành Phật. Pháp bình đẳng không cao thấp là Phật tánh. Phật và chúng sanh đồng thể như nhau, không sai khác. Đúng như lời Phật dạy, bi trí song tu, tuệ phước trang nghiêm, sẽ thành Phật đạo.
Làm đau khổ chúng sanh gọi là ác. Đem an vui cho chúng sanh gọi là thiện. Ngay lúc làm ác mà tỉnh ra, không ác nữa cũng gọi là thiện lành. Vậy pháp lành là việc tùy duyên, chẳng phải là một pháp cố định. Nên nói chẳng thật có pháp lành chỉ tạm gọi tên là lành.
24. Phước đức của trí tuệ không gì sánh bằng
Này Tu Bồ Đề, bá thí bảy báu nhiều bằng tất cả những núi Tu-di trong tam thiên đại thiên thế giới, phước đức không bằng thọ trì đọc tụng diễn giảng một bài kệ bốn câu Bát Nhã ba la mật. Trăm nghìn vạn ức phần cho đến toán số thí dụ cũng không bằng.
Thân sanh tử hưởng phước bao nhiêu rồi cũng hết. Trì kinh Kim Cang, sống với tánh vô sanh không diệt nên phước hưởng không cùng không tận.
25. Giáo hóa không chỗ giáo hóa
– Này Tu Bồ Đề, chớ bảo Như Lai khởi nghĩ sẽ độ chúng sanh. Vì nếu nghĩ thế tức là còn chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Như Lai nói có ngã tức chẳng phải có ngã mà phàm phu chấp là có ngã. Này Tu Bồ Đề, Như Lai nói chẳng phải là phàm phu, tạm gọi là phàm phu.
Vô tác diệu lực theo nguyện cảm hiện, lợi ích chúng sanh chớ Phật không động tâm khởi niệm. Phật xuất thế độ sanh, tạm dùng lời nói thế gian cũng xưng Ta nhưng không như phàm phu chấp ngã. Nói phàm phu mà biết đây là giả danh tạm chỉ những ông Phật còn mê.
26. Pháp-thân phi tướng
– Tu Bồ Đề, có thể do ba mươi hai tướng quán Như Lai chăng?
– Bạch Thế Tôn, như thế, do ba mươi hai tướng quán Như Lai.
– Nếu do ba mươi hai tướng quán Như Lai, thì Chuyển Luân Thánh Vương tức là Như Lai.
– Qua nghĩa Phật nói, theo chỗ con hiểu, không nên do ba mươi hai tướng quán Như Lai.
– Nếu do sắc thấy ta, do âm thanh cầu ta, người này hành đạo tà, chẳng thể thấy Như Lai.
Sắc tướng và âm thanh là pháp sanh diệt, không thể dùng đây làm nhân tu để cầu Pháp-thân vô sanh bất diệt.
Liệt vị Tổ sư phương tiện đặt bàn thờ hình tượng Phật cho chúng ta nhớ đến Pháp-thân Phật. Dạy chúng ta tụng kinh để y lời Phật mà tu hành, bỏ sanh tử về chân tánh. Từ trụ trì Tam-bảo, chúng ta hướng về xuất thế Tam-bảo để cầu nhận được nhất thể Tam-bảo (tánh Kim Cang).
Nhưng nếu không hiểu ý Phật Tổ, khư khư cố chấp bám chặt lấy sắc tướng âm thanh, cho đây là cứu cánh Phật đạo thì đã sai đường nên gọi là tà đạo.
27. Không đoạn không diệt
Tu Bồ Đề, chớ khởi nghĩ: Như Lai không do đầy đủ tướng mà được Vô-thượng chánh đẳng chánh giác. Tu Bồ Đề, chớ khởi nghĩ: Người phát tâm Vô-thượng chánh đẳng chánh giác nói các pháp đoạn diệt. Vì người phát tâm Vô-thượng chánh đẳng chánh giác không nói tướng đoạn diệt.
Nghe nói không thể do sắc tướng âm thanh mà thấy Phật, chúng ta dễ tưởng Phật ở ngoài thân năm uẩn. Nên Phật phải khuyên chớ nghĩ như thế. Vì Phật đã ở ngay thân đầy đủ tướng tốt này mà thành Phật, mà chứng Pháp-thân. Nhưng lại sợ chúng ta hiểu lầm: Vậy thân sắc tướng hoại thì Phật cũng bị đoạn diệt luôn. Chính điểm này người học đạo cần để ý. Thế gian có 2 bệnh:
a) Chấp thường: Linh hồn con người đời đời là người mãi, linh hồn con chó cứ là chó mãi.
b) Chấp đoạn: Thân này chết rồi là hết không còn gì nữa.
Giáo lý dạy: Thân chúng ta hiện tại có 2 phần vật chất và tinh thần. Bản thể đều là Như Lai Tạng vô sanh bất diệt ví như kim cang bất hoại.
28. Không thọ không tham
Này Tu Bồ Đề, Bồ-tát dùng bảy báu đầy hằng sa thế giới bá thí, công đức không bằng biết tất cả pháp vô ngã mà viên thành đức nhẫn nhục. Vì Bồ-tát không thọ phước đức.
– Bạch Thế Tôn, thế nào là Bồ-tát không thọ phước đức?
– Này Tu Bồ Đề, Bồ-tát làm phước mà không tham trước nên nói là chẳng thọ phước đức.
Bồ-tát có trí tuệ biết thân ta, thân người và tất cả vạn pháp đều không thật. Đã không ta thì đâu còn chỗ nào để lãnh thọ. Đối với các ngài làm gì có nhục mà phải nhẫn cũng chẳng có phước đức mà mong cầu. Chỉ một lòng tự giác giác tha cho tới ngày viên mãn.
29. Oai nghi tịch tĩnh
– Này Tu Bồ Đề, nói Như Lai đến đi ngồi nằm là không hiểu nghĩa ta nói. Vì không từ đâu đến, không đi về đâu mới gọi là Như Lai.
Văn trên đã định nghĩa: Như Lai là nghĩa Như của các pháp. Như là bất động. Các tác động là công dụng sanh diệt của vạn pháp. Kinh này dạy chúng ta về bản thể vô sanh bất diệt thường hằng của vạn pháp tức là Pháp-thân Như Lai.
30. Nhất hợp tướng
– Này Tu Bồ Đề, đem tam thiên đại thiên thế giới nghiền thành bụi thì số bụi có nhiều chăng?
– Bạch Thế Tôn, nhiều lắm. Nhưng nếu là bụi thật thì đức Phật không nói là nhiều. Đây không phải là bụi. Chỉ có cái tên là bụi. Bạch Thế Tôn, Như Lai nói tam thiên đại thiên thế giới tức không phải thế giới, ấy gọi là thế giới. Vì sao? Nếu thế giới thật có, ắt là một hợp tướng. Như Lai nói một hợp tướng tức không phải hợp tướng, ấy gọi là hợp tướng.
– Này Tu Bồ Đề, hợp tướng này không thể nói, chỉ có phàm phu tham trước việc này.
Các pháp ở thế gian, nhỏ như hạt bụi, lớn như thế giới, theo như kinh Lăng Nghiêm, đều tùy duyên tuần nghiệp giả hiện, không có thật thể. Bản chất vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như. Người thế gian cho là nhân duyên hòa hợp mà có. Đây là do vọng thức so đo phân biệt ước lượng, chớ không thật nghĩa.
31. Chẳng sanh tri kiến
– Này Tu Bồ Đề, Phật có nói ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến không?
– Bạch Thế Tôn, không. Vì Thế Tôn nói ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến tức chẳng phải ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. Ấy gọi là ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến.
– Này Tu Bồ Đề, phát tâm Vô-thượng chánh đẳng chánh giác, nơi hết thảy pháp nên biết như thế, thấy như thế, tin hiểu như thế, đừng sanh pháp tướng. Này Tu Bồ Đề, Như Lai nói chẳng phải pháp tướng, ấy gọi là pháp tướng.
Tất cả những danh từ thế gian sẵn có hoặc do đức Phật quyền tạm đặt ra để giáo hóa đều không thật. Không nên lấy đây làm y cứ mà khởi ra các thứ tri kiến.
32. Ứng hóa phi chân
– Này Tu Bồ Đề, đem bảy báu đầy vô lượng a-tăng-kỳ thế giới bá thí, công đức không bằng phát tâm Bồ-đề, thọ trì đọc tụng diễn giảng một bài kệ bốn câu kinh này.
Vì người diễn nói thế nào? – Đừng chấp tướng, hãy an định bất động. Bởi vì tất cả các pháp hữu vi đều như mộng, huyễn, bọt nước, bóng ảnh, sương mai, điện chớp. Nên quan sát như vậy.
Phật nói kinh này rồi, trưởng lão Tu Bồ Đề, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, tất cả thế gian: trời người, A-tu-la nghe lời Phật nói, đều rất vui mừng, tin thọ phụng hành.
Văn Kết
Tổng quát kinh Kim Cang dạy:
1- Quán chiếu.
Hằng dùng trí Bát Nhã quan sát: nhỏ từ hạt bụi, lớn đến thế giới, thân ta thân người, sáu trần vạn pháp… đã là hữu vi đều hư vọng. Tâm tưởng quá khứ, hiện tại, vị lai đều bất khả đắc.
2- Hàng phục vọng tâm.
Ngoài buông xả sáu trần, trong chế ngự vọng tưởng, không mắc kẹt những cố chấp. Đây là then chốt của sự tu hành.
3- An trụ chân tâm.
Buông được vọng thân, vọng tâm, vọng cảnh thì tánh Kim Cang hiển lộ. Không theo sáu trần đó là an trụ tâm. Nhưng phải nhớ nội thủ u nhàn vẫn là phân biệt pháp trần ảnh sự. Nên thiết yếu phải nhận được tánh Kim Cang hằng minh sáng ở sáu căn.
4- Công đức.
Tài thí bao nhiêu của cải thân mạng, công đức cũng không bằng pháp thí một bài kệ bốn câu. Bởi vì thế gian chi chi cũng chỉ là bọt nước, bóng ảnh. Làm sao sánh được với Kim Cang vô sanh bất diệt.
5- Tướng thành công: Như như bất động.
Như Lai là nghĩa Như của vạn pháp. Học Phật phải luyện tâm miên mật, xa lìa 4 yếu tố: tham yêu, giận ghét, sợ hãi, si loạn. Hàng ngày sáu căn đối cảnh tập bình tĩnh. Hằng nhớ sắc tướng, âm thanh… sáu trần duy thức, theo nghiệp báo biến hiện. Chỉ có tánh Phật là sự thật.
Muốn thoát những nguy hiểm thảm khốc của luân hồi, hưởng cảnh giới thường lạc ngã tịnh của Như Lai, phải biết trục lõi của bánh xe sanh tử là 2 cặp khổ vui (thọ) và yêu ghét (tưởng). Cho nên gặp cảnh hấp dẫn đến đâu, con Phật vẫnchánh niệm. Gặp cảnh trái ý đến đâu, vẫn chỉ một lòng từ bi.