CHUADUOCSU.ORG
HẠNH AN VUI
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA – HẠNH AN VUI – PHẨM THỨ 14
Tác giả: LONG THỌ BỒ TÁT
Bản dịch tiếng Hán: CƯU MA LA THẬP
Bản dịch tiếng Việt: THÍCH TRUNG QUÁN
Toát yếu: Tỳ-kheo-ni HẢI TRIỀU ÂM
***
PHÁP HOA THÔNG NGHĨA
Kinh Pháp Hoa lấy trí tuệ làm thể chất, lấy giác ngộ bản tâm làm tông chỉ. Bổn hoài Như Lai là khai thị Phật tri kiến cho chúng sanh ngộ nhập. Phật tri kiến chính là chân tâm bản tánh của mỗi hữu tình. Xứng tâm này, Phật diễn nói kinh Hoa Nghiêm, pháp giới viên dung vô ngại: “Lạ lắm thay! Lạ lắm thay! Hết thảy chúng sanh đều đầy đủ trí tuệ đức tướng Như Lai!” Nhưng chỉ riêng hàng đại cơ lãnh ngộ. Còn tiểu căn tại chỗ như đui như điếc.
Như Lai chưa thỏa mãn bổn hoài. Hai mươi mốt ngày kinh hành, xem ao sen, hoa nở có bông cao bông thấp, đức Thế Tôn xếp đặt chương trình giáo lý thành có tam thừa. Từ vườn Lộc Uyển nói Tứ-đế. Cho đến 22 năm giảng Bát Nhã. Ròng rã 40 năm quyền xảo phương tiện mới có hội Pháp Hoa, một chúng trí tuệ trinh thuần, hoàn toàn tin Tâm mình là Phật. Ai ai cũng được thọ ký. Đây mới là chỗ Như Lai vui lòng.
Diệu Pháp là tâm chúng sanh. Tâm này nhiếp tất cả thế xuất thế gian, Thánh phàm, nhiễm tịnh, nhân quả. Mê tâm này là chúng sanh. Tỉnh ngộ, nhận được tâm này, sống với tâm này là Phật. Lấy hoa sen làm thí dụ vì chính từ bùn tanh mà hoa thơm tươi nở. Phàm mê một phen tỉnh ngộ chính là Hiền Thánh. Rõ ràng chân vọng không hai, nhiễm tịnh giao triệt.
Vì đồng thể đại bi, đức Phật ra đời chỉ một mục đích khai thị tâm này cho chúng sanh ngộ nhập. Học kinh cần y văn tự, diệu khế Phật tâm, mới hợp ý Phật. Chúng Thanh-văn đã được thọ ký nhưng ở ngũ trược ác thế, duy trì được chỗ đã ngộ thật hết sức khó nên chỉ nguyện đi phương khác trì kinh. Các Bồ-tát đại thệ nguyện ở Ta-bà dùng nhẫn lực hoằng tuyên. Nhưng còn thấy khó, thấy khổ, phải nhẫn, thì chẳng thể tính việc dài lâu. Nên Văn Thù khải thỉnh một phương pháp an ổn để có thể giữ gìn gia nghiệp.
Phật dạy bốn hạnh an vui:
- Mặc áo Như Lai (Nhẫn nhục).
- Ngồi tòa Như Lai (Bát Nhã).
- Ở nhà Như Lai (Từ bi).
- Thân miệng ý chân chánh (Toàn thân Như Lai).
Đủ bốn hạnh này có thể diệu trì. Bởi vì ba nghiệp bất chánh chiêu vời tai nạn. Thiếu tâm từ mẫn là nguyên nhân gây oán. Không trí Bát Nhã, còn chấp ngã, chưa quên thân thì đâu đã hết hung ác. Còn chấp pháp, chưa quên vật nên răn dạy đề phòng ác giác ác tập, chớ thân cận những nơi không nên thân cận. Lăng Nghiêm gọi là “trừ trợ nhân, từ ba tiệm thứ vào vô sanh pháp nhẫn”.
Chỗ thân cận thứ nhất: thuộc sự hạnh. Không gần Quốc vương để đề phòng những kiêu mạn, buông lung, mất chánh niệm. Được lòng người quyền thế, giàu sang thì dễ mắc bả danh lợi. Mất lòng họ thì tánh mạng khó an. Không gần ngoại đạo để tránh tập khí tà kiến. Không gần kẻ viết sách thế gian vì vọng ngôn ỷ ngữ, tạp luận trở ngại chánh tư duy, mất chánh tri kiến. Không gần người cầu quả Thanh-văn vì không muốn đại nguyện độ sanh bị tổn giảm.
Chỗ thân cận thứ hai: là quán chiếu thuộc lý hạnh. Vào đời độ sanh không thể rời trí Bát Nhã. Nơi pháp không sở hành là đã được tịch diệt nhẫn. Quán pháp như thật tướng, người hủy người thọ đều không, tướng nhẫn cũng không.
Hạnh chánh ngữ: Không chê bậc Thanh-văn vì quyền giáo nhị thừa là của Như Lai phương tiện thi thiết. Cũng không tán thán vì không tùy hỷ việc chấp Hóa Thành làm Bảo Sở. Ai tới cầu pháp chỉ dùng đại thừa giải đáp vì muốn họ thành Phật đạo. Đây là tâm đại từ bi.
Hạnh chánh ý: Dùng giận tức chống cường bạo là lấy lửa mồi lửa. Người trì kinh phải xả ba độc. Ý căn chưa thanh tịnh chưa thể nói tới an vui.
Thắng ích trì kinh: Đầu kinh, Phật dùng bạch hào tướng quang (phổ quang minh trí) để bày việc thủy chung thành Phật không lìa một niệm hiện tiền. Tới nay đại chúng đã nghe diệu pháp, Phật tri kiến đã khai, tự thấy thủy chung thành Phật, ức kiếp trường cửu ở ngay một niệm, không lìa sát-na tế. Sanh tử Niết-bàn như giấc mộng đêm qua. Ý khiến người trì kinh quán các pháp đều không, vô sở hữu, rõ ràng bất khả đắc. Đây là thâm chứng thật tướng tam-muội.
Lạ thay! Lạ thay! Nghe pháp ngộ đạo tu hành cho đến thành Phật, độ sanh, nhập Niết-bàn… thời gian lâu xa vô lượng kiếp, chung quy chỉ trong một giấc mộng. Cái việc lạ lùng cổ kim một mé, co duỗi đồng thời của kinh Hoa Nghiêm, thấy đủ ở nơi đây. Đem hơn ba trăm lời để tỏ bày việc vô tận. Nếu chẳng phải biện tài nhiệm mầu của Phật, ai có thể được như thế.
Đời nhà Minh – núi Nam NhạcSamôn Hám Sơn – THÍCH ĐỨC THANH THUẬT.
***
KHÓA LỄ
TÁN PHẬT
Đấng Pháp-vương vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Đạo-sư khắp trời người,
Cha lành chung bốn loài.
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp tăng kỳ,
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.
Phật, chúng sanh tánh thường không tịch,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn.
Lưới Đế-châu ví đạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời
Trước bảo tòa thân con ảnh hiện,
Cúi đầu xin đảnh lễ quy y.
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Nam mô tận hư không biến pháp giới quá hiện vị lai, thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam-bảo (1 lễ).
Nam mô Ta-bà giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Long Hoa giáo chủ Di Lặc Tôn Phật, đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát, đại hạnh Phổ Hiền Bồ-tát, Hộ Pháp chư tôn Bồ-tát, đạo tràng hội thượng Phật Bồ-tát nhất thiết chư Hiền Thánh Tăng (1 lễ).
Nam mô Tây phương An Lạc thế giới đại từ đại bi tiếp dẫn Đạo-sư A Di Đà Phật, đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát, Đại Thế Chí Bồ-tát, đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát, Thanh Tịnh đại hải chúng Bồ-tát (1 lễ).
SÁM HỐI
Con nay khắp vì bốn ân ba cõi pháp giới chúng sanh tất nguyện đoạn trừ ba chướng quy mạng sám hối (1 lễ).
CHÍ TÂM SÁM HỐI:
Con xưa đã tạo bao nghiệp ác,
Đều vì ba độc tham, sân, si.
Từ thân miệng ý phát sanh ra
Hết thảy con nay cầu sám hối.
Bao nhiêu nghiệp chướng sâu nhường ấy,
Thảy đều tiêu diệt không còn dư,
Niệm niệm trí soi khắp pháp giới,
Rộng độ chúng sanh thề chẳng thoái.
Sám hối phát nguyện rồi, chí tâm đảnh lễ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật biến pháp giới thường trụ Tam-bảo (1 lễ).
TÁN HƯƠNG
Lư hương vừa bén chiên-đàn
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa,
Lòng con tôn kính thiết tha
Ngưỡng mong chư Phật thùy từ chứng minh.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).
CHÚ SẠCH KHẨU NGHIỆP
Tu lị, tu lị, ma ha tu lị, tu tu lị, sa bà ha (3 lần).
CHÚ SẠCH THÂN NGHIỆP
Tu đa lị, tu đa lị, tu ma lị, sa bà ha. (3 lần)
CHÚ SẠCH BA NGHIỆP
Ám sa phạ bà phạ, truật đà sa phạ, đạt ma sa phạ, bà phạ truật độ hám (3 lần).
CHÚ AN THỔ ĐỊA
Nam mô tam mãn đá một đà nẩm, ám độ rô độ rô, địa vĩ sa bà ha (3 lần).
CHÚ PHỔ CÚNG DƯỜNG
Ám nga nga nẵng tam bà phạ phạt nhật la hộc (3 lần).
KỆ KHAI KINH
Pháp Phật cao sâu rất nhiệm mầu,
Ngàn muôn ức kiếp dễ hay đâu,
Con nay nghe thấy xin vâng giữ
Chơn nghĩa Như Lai hiểu thật sâu.Nam mô Pháp Hoa hội thượng Phật Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).
***
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA – HẠNH AN VUI – PHẨM THỨ 14
Khi ấy, đại Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi bạch Thế Tôn: Các Bồ-tát đây rất là hiếm có. Vì kính thuận Phật nên phát nguyện lớn: Nơi đời ác sau sẽ hộ trì đọc nói kinh Pháp Hoa.
Phật dạy: Nếu đại Bồ-tát ở đời ác sau muốn nói kinh này phải an trụ trong bốn pháp:
Này Văn Thù Sư Lợi, thế nào là chỗ tu hành của đại Bồ-tát?
– Nhẫn nhục, nhu hòa, khéo thuận, không nóng nảy thô bạo. Cũng không khiếp nhược nhút nhát. Nơi các pháp hư vọng, Bồ-tát quán thật tướng, không duyên theo, không phân biệt.
Đại Bồ-tát thân gần những nơi nào?
– Không thân gần vua quan, ngoại đạo, kẻ viết sách thế tục ca ngâm. Cũng chẳng gần những người hung hiểm chơi trò đâm nhau đánh nhau, những đào kép đùa cợt bày các biến hóa. Không gần bọn làm nghề ác: hàng thịt, săn bắn, chài lưới, nuôi heo dê gà chó, v.v… Nếu những kẻ này tìm tới thì Bồ-tát vì nói pháp, không tâm hy vọng.
Bồ-tát không gần những người cầu quả Thanh-văn như Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Nếu những vị này tìm đến thì Bồ-tát tùy nghi nói pháp, không tâm hy vọng.
Này Văn Thù Sư Lợi, Bồ-tát nơi thân người nữ không khởi tưởng dục nhiễm mà vì nói pháp. Cũng chẳng ưa thấy. Vào nhà thế gian, không cùng gái nhỏ, gái trinh, gái góa nói chuyện. Cũng không thân gần những kẻ bất nam (không thật là con trai). Không một mình vào nhà họ. Nếu hoàn cảnh bắt buộc phải vào một mình thì nhất tâm niệm Phật. Vì người nữ nói pháp, không cười hở răng, không lộ bày ngực. Vì pháp còn chẳng thân gần huống chi việc khác.
Không nuôi đệ tử ít tuổi và các trẻ nhỏ. Cũng không ưa cùng chúng một Thầy.
Thường ngồi thiền ở nơi thanh vắng, thâu nhiếp tâm mình. Đây là chỗ thân cận thứ nhất của Bồ-tát.
Đại Bồ-tát quán thật tướng. Tất cả các pháp không, chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng thoái, chẳng chuyển, như hư không, không thật tánh, không thể nói phô, không sanh, không xuất, không khởi, không danh, không tướng, không chỗ có, vô lượng, vô biên, vô ngại, vô chướng. Chỉ do nhân duyên giả có. Chỉ từ điên đảo giả sanh. Thường quan sát pháp tướng như thế là chỗ thân cận thứ hai của Bồ-tát.
Đức Thế Tôn nói kệ trùng tuyên lại nghĩa trên:
Bồ-tát đời sau
Muốn nói Pháp Hoa,
Được vui an ổn.
Trước hết xa lìa
Vua quan quyền quý,
Kẻ chơi hung hiểm,
Bọn chiên-đà-la,
Ngoại đao tà kiến,
Hàng tăng thượng mạn
Tham đắm tiểu thừa,
Phá giới Tỳ-kheo,
Danh tự La-hán,
Những Tỳ-kheo-ni
Ưa thích giỡn cười,
Phật tử tại gia
Tham đắm năm dục,
Phụ nữ, bất nam,
Đồ tể, nghề ác,
Buôn gái bán sắc,
Những người như thế
Chớ có thân gần.
Nếu họ tâm tốt,
Tìm đến cầu pháp
Bồ-tát vì nói,
Không lòng hy vọng.
Chớ riêng chỗ khuất,
Vì nữ nói pháp.
Vào làng khất thực,
Không bạn Tỳ-kheo,
Nhất tâm niệm Phật.
Bồ-tát hành xứ,
Bát Nhã trí quán
Không chấp các pháp
Thượng, Trung hay Hạ,
Hữu vi vô vi,
Thật hay chẳng thật.
Tướng nam tướng nữ,
Người thấy người nghe,
Đều là hư vọng,
Không hề có thật,
Không khởi không diệt,
Không chút thường trụ.
Đây chỗ người trí
Hằng nương thân cận.
Ở nơi vắng vẻ,
Thâu nhiếp tâm ý,
An trụ bất động
Như núi Tu-di.
Quán tất cả pháp
Đều không thật có,
Cũng như hư không,
Không sanh không suất,
Không động không thoái,
Thường trụ một tướng.
Tỳ-kheo đời sau
Tu hành như thế,
Giảng nói kinh này
Không còn sợ hãi.
Bồ-tát nhập thất,
Đúng nghĩa quán pháp.
Từ thiền định dậy,
Vì các vua quan,
Nhân dân trăm họ,
Diễn giảng kinh này,
Thân tâm an ổn,
Không nhiếp không nhược.
Văn Thù Sư Lợi,
Đây là sơ pháp
Để về mai sau,
Bồ-tát an trụ
Nói kinh Pháp Hoa.
Này Văn Thù Sư Lợi, Như Lai diệt độ rồi, trong thời mạt pháp, muốn nói kinh này phải trụ hạnh an vui: không nói lỗi các kinh điển, không khinh mạn các Pháp sư, không bới việc hay dở tốt xấu của ai, không gọi tên hàng Thanh-văn ra để khen chê.
Người nói, tu tâm an vui, không oán hiềm nên người nghe sẽ vui vẻ thuận thảo. Nếu có gạn hỏi, chỉ dùng đại thừa giải đáp, khiến được Nhất-thiết-chủng- trí. Kệ rằng:
Tòa ngồi thanh tịnh,
Tắm gội sạch thơm,
Áo mới sạch sẽ,
Trong ngoài thanh khiết,
Hòa nhan bình khí,
Tùy hỏi vui đáp.
Nhân duyên thí dụ,
Diễn giải phân biệt,
Khiến người phát tâm,
Vào đạo thêm đông.
Quyết định xa rời
Lười mỏi biếng nhác,
Ưu não nhọc phiền.
Ngày đêm hoan hỷ
Diễn nói khai thị
Vô thượng giáo pháp,
Không tâm hy vọng
Danh lợi cúng dàng.
Chỉ một lòng mong
Ta người thành Phật.
Bậc trí như thế
Công đức an vui
Ngàn vạn ức kiếp
Không cùng không tận.
Này Văn Thù Sư Lợi, đại Bồ-tát thời mạt thế muốn đọc tụng kinh điển này, phải rửa sạch những tâm ganh ghét siểm dối. Chớ bới móc não nhọc người cầu đạo khiến họ nghi hối. Chớ khinh mắng rằng: “Các ngươi buông lung biếng trễ như thế thì cách đạo còn xa, chẳng thể được Nhất-thiết-chủng-trí”. Cũng chẳng nên bông đùa tranh luận. Nơi tất cả chúng sanh phải khởi lòng đại bi. Nghĩ chư Phật là cha lành, các Bồ-tát là Thầy Tổ. Thâm tâm cung kính lễ bái mười phương Thánh Hiền. Đem lòng bình đẳng nói pháp. Vì thuận theo pháp nên chẳng nói ít, chẳng nói nhiều. Cho đến với người rất ưa pháp, cũng chẳng nói nhiều.
Văn Thù Sư Lợi, đại Bồ-tát thành tựu hạnh an vui thứ ba này thì khi nói pháp không bị não loạn, sẽ có nhiều bạn lành đồng học, sẽ có đông chúng đến nghe pháp rồi thọ trì đọc tụng biên chép cúng dàng bảo kinh.
Ganh, hờn, siểm, dối,
Tà ngụy kiêu mạn,
Hý luận khinh người,
Chiêu vời tai nạn.
Pháp sư nhu hòa,
Một lòng từ bi,
Tinh tấn hành đạo,
Khai hóa chúng sanh.
Mười phương Bồ-tát
Là Đại Sư ta!
Đức Phật Thế Tôn,
Vô thượng cha lành!
An vui thứ ba,
Người trí giữ gìn
Tự lợi lợi tha,
Đại chúng cung kính.
Này Văn Thù Sư Lợi, thời mạt thế, đại Bồ-tát trì kinh Pháp Hoa, với hàng tại gia xuất gia sanh lòng đại từ, với những ai không phát tâm Bồ-đề sanh lòng đại bi. Nghĩ rằng: Những người này chịu thiệt thòi quá nhiều. Như Lai phương tiện tùy nghi nói pháp mà chẳng biết, chẳng nghe, chẳng hỏi, chẳng hiểu, chẳng tin. Sau này ta chứng quả vô thượng Bồ-đề, dù họ ở nơi nào ta cũng dùng thần thông trí tuệ dẫn dắt đưa vào Phật pháp.
Văn Thù Sư Lợi, đại Bồ-tát thành tựu pháp an vui thứ tư này thì nói pháp không còn lỗi lầm, thường được thính chúng cung kính tán thán. Chư Thiên vì nghe pháp hằng theo hầu. Trong các xóm làng thành ấp rừng cây vắng vẻ, có ai muốn đến gạn hỏi, chư Thiên đều khiến cho được vui mừng. Bởi vì ba đời hết thảy chư Phật đều dùng thần lực hộ trì kinh này. Vô lượng cõi nước còn chẳng được nghe tên huống chi thọ trì đọc tụng.
Này Văn Thù Sư Lợi, thí như Chuyển-luân-thánh-vương dùng binh hàng phục các vua nhỏ. Theo công ban thưởng ruộng nhà, tiền của, châu báu v.v… chỉ viên minh châu trong búi tóc chẳng cho. Bởi vì đây là bảo châu riêng của nhà vua dùng để trang nghiêm trên đầu. Nay nếu đem cho người thường thì ai nấy đều sẽ kinh lạ. Như Lai cũng thế. Các tướng Hiền Thánh có công hàng ma cũng được thưởng thiền định, giải thoát v.v… cho tới Niết-bàn. Duy chỉ chưa vì nói kinh Pháp Hoa.
Này Văn Thù Sư Lợi, thí như Chuyển-luân-thánh-vương đem bảo châu, từ xưa chưa từng vọng trao cho ai mà nay đem thưởng đại công. Đức Như Lai thấy các đệ tử phá được lưới ma, ra khỏi ba cõi nên rất vui mừng, nói kinh Pháp Hoa, đưa chúng sanh đến Nhất-thiết-trí.
Kệ rằng:
Kinh này tôn quý,
Cao nhất các kinh.
Ta thường thận trọng,
Không vọng khai thị.
Nay chính phải thời
Vì các ngươi nói.
Ta diệt độ rồi,
Người cầu Phật đạo,
Dùng bốn an vui
Diễn nói kinh này,
Sẽ được yên ổn,
Không bệnh không não,
Nhan sắc tươi trắng.
Không sanh dòng hèn,
Nghèo khổ nhơ xấu.
Chúng sanh ưa thấy
Như mộ Hiền Thánh.
Đồng tử cõi trời
Hầu hạ ủng hộ
Dao gậy không đến.
Độc dữ không hại.
Miệng ác muốn mắng,
Liền bị bít họng.
Như sư tử chúa,
Tự tại ngao du.
Như mặt trời sáng,
Trí tuệ quang tỏ.
Nằm mộng chỉ thấy
Những việc vi diệu
Thấy Phật thuyết pháp,
Tỳ-kheo vây quanh.
Hằng sa trời rồng,
Cung kính chắp tay.
Tự thấy thân mình
Vì họ giảng nói.
Lại thấy chư Phật,
Thân vàng rực rỡ,
Phóng vô lượng quang,
Nói pháp vô thượng.
Tự thân nghe pháp,
Hoan hỷ cúng dàng
Được đà-la-ni,
Chứng ngôi bất thoái,
Được Phật thọ ký.
Lại thấy tự thân
Ở trong núi rừng,
Tu tập pháp lành
Chứng được thật tướng.
Vào sâu thiền định,
Thấy mười phương Phật
Trăm phước trang nghiêm.
Lại mộng làm vua,
Xả ngôi đi tu.
Dưới gốc Bồ-đề,
Được trí tuệ Phật.
Chuyển đại pháp luân,
Độ vô lượng chúng.
Sau vào Niết-bàn,
Đèn tắt khói hết.
Trong đời ác sau,
Nói kinh Pháp Hoa,
Công đức lợi ích
Tuyệt vời như thế.
***
Trí độ đại đạo, Phật khéo tới!
Trí độ đại hải, Phật cùng đáy!
Trí độ tướng nghĩa, Phật vô ngại!
Đảnh lễ Phật trí vô đẳng đẳng,
Tôn Pháp thật tướng sạch phiền não,
Thánh chúng hòa hợp thắng phước điền.
Nhất tâm cung kính quy mạng lễ
Nam mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh
Pháp Hoa hội thượng Phật Bồ-tát. (3 lạy)
KINH TÂM YẾU BÁT NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
Bồ-tát Quán Tự Tại thực hành sâu xa phép Bát Nhã ba-la-mật-đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, độ thoát hết thảy khổ ách.
Này Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế.
Này Xá Lợi Tử! Tướng “không” của mọi pháp không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt.
Cho nên trong “chân không” không có sắc, không có thọ tưởng hành thức không có mắt tai mũi lưỡi thân ý, không có sắc thanh hương vị xúc pháp, không có nhãn thức giới cho đến không có ý thức giới không có vô minh cũng không hết vô minh cho đến không có già chết cũng không hết già chết không có khổ tập diệt đạo không có chứng biết cũng không được gì. Bởi vì vô sở đắc.
Bồ-tát y Bát Nhã ba-la-mật-đa nên tâm không quản ngại. Vì không quản ngại nên không sợ hãi, xa hẳn mộng tưởng điên đảo, đạt tới cứu cánh Niết-bàn.
Ba đời chư Phật y Bát Nhã ba-la-mật-đa, nên được đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Cho nên biết Bát Nhã ba-la-mật-đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật không hư.
Vì vậy nói chú Bát Nhã ba-la-mật-đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, sa bà ha” (3 lần).
BẠT NHẤT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BẢN ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ-LA-NI:
Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa giạ, đá địa giạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, già di nị, già già na, chỉ đa ca lệ, sa bà ha (3 lần).
NIỆM PHẬT
Phật A Di Đà thân kim sắc,
Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm
Năm Tu-di uyển chuyển bạch hào,
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc.
Từ hào quang rực rỡ sáng ngời
Vô số Phật Bồ-tát hóa hiện
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát.
Quy mạng lễ A Di Đà Phật
Ở phương Tây thế giới an lành,
Con nay xin phát nguyện vãng sanh
Cúi xin đức Từ-bi tiếp độ.
- Nam mô Tây phương An Lạc thế giới đại từ đại bi, tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.
- Nam mô A Di Đà Phật (108 biến).
- Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát (3 lần).
- Nam mô Đại Thế Chí Bồ-tát (3 lần).
- Nam mô Địa Tạng Vương Bồ-tát (3 lần).
- Nam mô Thanh Tịnh đại hải chúng Bồ-tát (3 lần).
HỒI HƯỚNG
Tụng kinh công đức thù thắng hạnh,
Vô biên thắng phước con hồi hướng
Khắp nguyện trầm nịch bao chúng sanh
Sớm về cõi Phật Quang Vô Lượng.
Nguyện tiêu ba chướng trừ phiền não,
Nguyện được trí tuệ chơn minh liễu,
Khắp nguyện tội chướng đều tiêu trừ,
Đời đời thường hành Bồ-tát đạo.
Nguyện sanh Tây phương cõi Tịnh-độ,
Chín phẩm hoa sen làm cha mẹ,
Hoa nở thấy Phật chứng vô sanh,
Bất thoái Bồ-tát đồng bạn lữ.
Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
LỄ TẠ
- Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh hiểu rõ đạo lớn, phát tâm Bồ-đề.
(1 lễ)
- Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh vào sâu kinh tạng, trí tuệ như biển.
(1 lễ)
- Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh thống lý đại chúng, hết thảy không
ngại (1 lễ).
Hòa nam Thánh chúng.
***
Vài trang TRÍ ĐỘ LUẬN
(Để hiểu nghĩa kinh Pháp Hoa)
I. TOÀN VỌNG TỨC CHÂN
Văn Thù bổn duyên: Vô lượng a-tăng-kỳ kiếp xa xưa, thời chánh pháp của Sư Tử Âm Vương Phật có hai Bồ-tát Tỳ-kheo. Thắng Ý pháp sư trì giới được tứ thiền và bốn vô sắc định. Nhưng vì chưa được âm thanh đà-la-ni nên nghe Phật nói thì mừng, nghe ngoại đạo thì giận, nghe ác không hài, nghe thiện thì vui, nghe sanh tử thì lo sợ, nghe Niết-bàn thì hoan hỷ. Một hôm khất thực, vào nhà một cư sĩ, ca ngợi hạnh đầu đà. Cư sĩ thưa: “Bạch Đại đức, các phiền não dâm nộ si ở trong hay ở ngoài mà cứ phải đợi ngoại duyên mới từ tâm sanh? Nếu chúng là không thì làm sao phiền nhọc ta?”. Biết cư sĩ này đã được Hỷ Căn Bồ-tát giáo hóa nên Thắng Ý không đáp, về Tinh-xá bảo các Tỳ-kheo: “Hỷ Căn Bồ-tát dạy người tà kiến, nói dâm nộ si vô ngại”.
Hỷ Căn Bồ-tát thương xót, muốn vì kết duyên về sau, nhóm chúng Tăng nói kệ rằng:
Phân biệt dâm nộ si khác với đạo,
Người này xa Phật như trời và đất.
Nghe “dâm nộ si và đạo bình đẳng”
Mà không sợ hãi, là đã gần Phật.
Chấp ta người là đường vào ác đạo
Có không bình đẳng, Phật đạo siêu thắng.
Thắng Ý Bồ-tát vì phỉ báng đại pháp đọa địa ngục ngàn vạn ức năm. Sau lên làm người 74 vạn đời thường bị phỉ báng. Vô lượng kiếp không được nghe danh hiệu Phật. Đến khi gặp Phật pháp, xuất gia tu đạo, sáu vạn hai ngàn đời cứ nửa chừng xả giới. Vô lượng đời sau, tuy xuất gia mà ám độn, không sao ngộ đạo. Trả xong quả báo, nhờ đã được nghe qua tai bài kệ của Hỷ Căn Bồ-tát nên thông minh trí tuệ, khéo hiểu thâm pháp, khéo nói thâm nghĩa. Nay là Văn Thù Sư Lợi, đứng thượng thủ hàng Bồ-tát trong hội Pháp Hoa.
Giải nghĩa: Con mắt thế gian thủ chấp tánh cách cố định của vạn pháp. Ác quyết định là ác. Thiện quyết định là thiện. Ác và thiện phải là hai cái tách riêng đối lập. Đạo Phật chủ trương vạn pháp chẳng phải có, chẳng phải không. Bát Nhã Tâm Kinh tuyên bố: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ tưởng hành thức cũng đều như thế”.
Một đồ tể xuất gia kệ rằng: “Hôm qua tâm dạ-xoa, hôm nay mặt Bồ-tát. Bồ-tát cùng dạ-xoa, đâu cách một sợi chỉ”.
Ta phát cáu vì thuyết pháp bị phản đối, thế là thiện đã biến thành ác. Kẻ cắp thôi nghề ăn trộm, lo ăn chay làm phước, thế là ác đã biến thành thiện. Ngu xuẩn khư khư cố chấp, chỉ tự làm khổ mình và khổ người. Biết bản gốc của tất cả tốt xấu đều là tâm, thì một mặt dứt xấu tu tốt, một mặt không yêu ghét khen chê, được vô trụ và vô niệm. Vì tâm còn trụ là còn sợ hãi. Nếu trụ vào thân thì cùng thân quản ngại mất còn. Nếu trụ vào cảnh thì trước vô thường đổi thay sẽ khó bình tĩnh. Nếu trụ vào Niết-bàn sẽ chán ghét sanh tử. Người có trí tuệ Bát Nhã, tâm tự tại vô trụ, thì quả vị Phật không xa.
Vọng niệm phân biệt do chấp ta, chấp pháp, là gốc lưu chuyển sanh tử. Quên chân tánh, theo phân biệt, khởi ba độc, tạo nghiệp thiện ác, thì dù bay lên hư không, lặn xuống đáy biển, vào trong vách đá, cũng không trốn được quả báo luân hồi. Tịch tĩnh sống với chân tánh là Phật đạo.
II. TAM BẢO THƯỜNG TRỤ
Mặt trời rực sáng mà kẻ mù không thấy. Sấm sét vang trời mà kẻ điếc vẫn không nghe. Hiện tiền mười phương chư Phật vẫn thuyết pháp khắp nơi mà chúng sanh nghiệp chướng nặng nề đâu có hay biết. Bồ-tát thường sám hối, thường niệm Phật để cầu tội chướng tiêu trừ, trí tuệ khai minh. Được thấy Phật nghe pháp mới sớm mau giải thoát. Vì vai trò của duyên quan trọng chẳng kém nhân. Hoàn cảnh thuận lợi là môi trường để chủng tử Phật sẵn có nơi mỗi chúng sanh được khai hiển.
Về sau Tổ Đạo Tín có kệ rằng:
Hạt hoa chứa tánh sống,
Duyên đất hoa nảy mầm.
Lý nhân duyên xương minh
Bát Nhã không bất không!
Hiện tiền vạn pháp kia
Đương sanh tức vô sanh.
Kinh Tam Thiên Đại Thiên: Phật an cư ở trên trời Đao Lợi. Ngày tự tứ, Ngài Mục Kiền Liên lên trách: Bạch Thế Tôn, sao Ngài nỡ bỏ chúng sanh? – Ông hãy nhìn khắp tam thiên đại thiên thế giới.
Mục Kiền Liên nương lực Phật, thấy đâu đâu Phật cũng đang thuyết pháp. – Chỗ thấy của ông còn rất ít đấy. Ông nên biết phương Đông kia có cõi đất thuần vàng, đệ tử Phật toàn là A-la-hán. Lại có cõi thuần bạc, đệ tử Phật toàn là Bích Chi. Lại có cõi thuần bảy báu, đệ tử Phật toàn là đại Bồ-tát, đã được đà-la-ni, trụ ngôi bất thoái. Mục Kiền Liên nên biết các đức Phật ấy đều là thân ta. Như thế, khắp mười phương hằng hà sa thế giới đều có thân ta. Không giờ phút nào ta rời bỏ chúng sanh, như mẹ hiền không lúc nào quên con dại.
Ngài Mục Kiền Liên rơi nước mắt lui về.
III. BÁ THÍ
Quán thật tướng là thấy được tánh thể kiên chắc chân thật của các pháp. Tuy biết thật tướng các pháp không sanh không diệt, Bồ-tát vẫn tinh tấn tu công đức. Ví như ở trong nhà cháy, người trí tuệ mau gấp chạy tiền của ra ngoài. Nhà tuy cháy hết, tiền của hãy còn. Lại làm nhà mới, bình an vui vẻ. Kẻ ngu không biết sợ lửa vô thường, không chăm tu phước nên chịu đời đời tay không, đói rét.
Thời Phật Tỳ-bà-thi, Tỳ-kheo Bạc-câu-la đem một trái A-lê-lặc cúng dàng chúng Tăng, được quả báo 91 đời hưởng phước lạc cõi trời. Nay được thân sống lâu không bệnh tật, gặp Phật Thích Ca, xuất gia chứng A-la-hán. Samôn Thập Ức về kiếp xa xưa làm một phòng nhà cúng dàng chúng Tăng, trải vải làm thảm che đất, cũng đã được nhiều kiếp hưởng vui trời người. Đời nay sanh ra gan bàn chân có lông dài mềm nhũn. Bước đi như đạp trên nhung, xuất gia theo Phật chứng A-la-hán.
Đệ nhất phước điền của thế gian là các đệ tử Phật đang đi con đường giới định tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Vợ con quyến thuộc dắt người vào ba đường ác. Nay đã xả bỏ được theo Tăng chúng an ổn cùng đi đường Thánh, nên hoan hỷ nhất tâm cung kính tùy thuận. Tăng là bạn chân thật cùng ta đi đến Niết-bàn.
Một thí chủ không ưa thỉnh cúng dàng người ít tuổi. Trong chùa có một Sadi A-la-hán, biến thân thành một ông già, da nhăn như sóng gợn, lông mày trắng như bông, miệng móm, lưng gù, tay chống gậy, run rẩy đi tới. Thí chủ sung sướng đón rước. Đang ăn ông già hoàn hình tuổi trẻ. Thí chủ kinh sợ. Sadi nói: “Khuyên thí chủ chớ lấy tuổi tác mà đánh giá chúng Tăng. Phật dạy có 4 sự nhỏ không nên coi thường:
Thái tử nhỏ mà địa vị trên các lão thần.
Rắn độc nhỏ cắn chết người.
Tia lửa nhỏ có thể làm cháy cả một rừng cây.
Sadi nhỏ có thể là Thánh nhân. Kính Phật trọng Tăng, vì đều là Bảo, công đức khó nghĩ bàn. Tăng là đội quân hùng mạnh dẹp giặc vô minh, đưa chúng sanh về đến Niết-bàn nên thường cung kính gần gũi chớ đem tâm phân biệt lớn nhỏ”.
Quá khứ chư Phật, phần nhiều bắt đầu con đường tu hành từ hạnh bá thí. Hai cún con đang giỡn nhau rất là thân ái. Ta chỉ cần ném tới một mảnh xương vụn. Thế là hai đứa quay ra cắn nhau, con mắt thù hằn nhìn nhau. Phật dạy tiền bạc là mồi khiến tham sân trong lòng con người bùng cháy cho nên cấm các Tỳ-kheo không được cầm nắm. Cầm nắm còn cấm huống chi chứa để. Mạng người vô thường. Tiền của đến rồi đi như điện chớp. Không ai xin còn vất bỏ huống chi xin mà không cho. Huống chi thí được đại phước sao lại không làm?
Thí là kho báu
Chứa toàn lợi ích
Bảo đảm thoát nạn
Đói khát nóng rét.
Thí là thuyền chắc,
Qua biển bần cùng.
Thí là nước rửa
Tham, sẻn, hung, suy.
Thí sanh phước lợi,
Hiện tại vui vẻ
Mệnh chung lên trời,
Mai sau Niết-bàn.
Đem tâm thanh tịnh giảng nói mười hai loại kinh gọi là pháp thí. Dùng thần thông khiến người đạt đạo cũng là pháp thí. Xả bỏ phiền não là sự vi diệu khó được như lìa rắn độc, như cởi bỏ gông cùm nên quả báo của pháp thí không cùng tận. Quả báo tài thí ở cõi dục. Quả báo pháp thí ở khắp trong và ngoài ba cõi. Tài thí cứu khổ đói khát nóng lạnh bệnh tật nội một đời. Pháp thí chữa bệnh vô minh, cứu khổ sanh tử, bá thí giải thoát vĩnh viễn.
IV. TRÌ GIỚI
Độc long thọ bát quan trai giới, mệt vào rừng ngủ. Thợ săn lấy gậy đè đầu, lấy dao lột da. Rồng sức mạnh quật lên thì người ấy phải chết. Nhưng vì trì giới, cam chịu nhẫn khổ không một niệm hối tiếc. Thịt máu hơi tanh, trùng kiến bu lại, rồng không dám cựa, thầm nguyện: Bao giờ thành Phật, sẽ có pháp thí cho tụi bây đồng thành Phật đạo. Độc long chết sanh về cõi trời, là tiền thân của Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Giữ tâm như đuốc sáng,
Trau thân như gìn vàng,
Mỗi lời là hạt ngọc,
Ý nghĩ như hương hoa.
Đức Phật Ca Diếp có một em trai tên Uất-đa-la. Anh điềm đạm ít nói. Em hay luận bàn nên rất được người thời bấy giờ tin kính. Vua mời làm quân sư. Một hôm, Uất-đa-la ngồi xe bằng vàng, bốn ngựa trắng kéo, cùng năm trăm đệ tử vây quanh, đi ra ngoài thành. Dọc đường gặp một người quen báo tin: Anh Ngài đã được đạo Bồ-đề vô thượng. – Người trọc đầu ấy sao mà có chuyện Bồ-đề?
Tức thời đi đến chỗ Phật Ca Diếp. Thấy Phật thân tướng quang minh, hối hận đã lỡ lời nói ác, phát nguyện từ nay tránh nói bàn vô ích, xa lìa tất cả lỗi lầm của miệng. Lễ Phật, nghe pháp, tâm thanh tịnh, được vô lượng đà-la-ni, Uất-đa-la xin xuất gia. Phật nói: Thiện lai Tỳ-kheo! Uất-đa-la tức thời thành Samôn. Hậu thân về sau thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni (Mâu Ni: tịch mạc: im lặng).
Thánh nhân có hai lời nói:
- Nói thật, chỉ thẳng thật tướng.
- Phương tiện. Như nói vô thường để chúng sanh dứt đắm say ba cõi. Rồi nói tánh chân thường để đưa về thật. Vào thật tướng rồi sẽ tự biết cả thường vô thường đều là hý luận. Người trí tuệ không chán sanh tử, không vui Niết-bàn vì biết không hai.
Trì giới bỏ ác làm lành, sao kinh Đại Bát Nhã lại nói: Có tội không tội bất khả đắc? – Theo thế đế thì có ta có người, có Thánh phàm, có tội phước. Theo đệ nhất nghĩa đế thì chân tâm bản lai thanh tịnh bình đẳng. Nếu còn phân biệt kính yêu người lành thì sẽ khinh mạn kẻ ác. Trì giới trở thành nhân duyên tạo tội. Người trí tuệ biết năm ấm ta người đều không. Nên không phân biệt tốt xấu. Trì giới có trí tuệ Bát Nhã, dùng vô sở đắc làm phương tiện giải thoát. Vạn pháp đều không, vô ngã, vô ngã sở. Trong tâm não đủ ba điều này mới quyết định tâm không ác, miệng không ác, thân không ác.
V. NHẪN NHỤC
Nhẫn có hai:
- Chúng sanh đẳng nhẫn: Đối với tất cả chúng sanh đẳng tâm, đẳng niệm, đẳng ái, đẳng lợi. Biết tướng hư vọng, người vật, lớn nhỏ, đồng khác đều không thật. Bậc đẳng nhẫn với tất cả chúng sanh, không sân, không não. Đã quán thanh trần như âm vang, thân hành như bóng trong gương nên nhẫn được các thứ tệ ác.
- Pháp đẳng nhẫn: Vào sâu thật tướng, không cãi không tranh, diệt sạch hý luận, tâm thông vô ngại, không động, không lùi, gọi là vô sanh pháp nhẫn, bước đầu vào Phật đạo.
Mỗi khi bị não loạn bức thân, Bồ-tát đem khoan dung tha thứ từ hòa đáp lại. Vua Ca Lợi xẻo tai chặt chân Tiên ông. Tiên ông nguyện bao giờ đắc đạo sẽ độ cho vua trước nhất. Do đây Tiên ông thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Bồ-tát quán thân ở trong thai bức nghẹt, ra khỏi lòng mẹ là bốn khổ sanh già bệnh chết. Mãn tuổi thọ lại vào ba đường ác. Cái mụn nhọt này tánh nó là đau khổ. Còn gia tăng dao cứa gai chích làm chi?
Phàm phu bị xâm phạm thì giận, được lợi thì mừng, gặp nguy thì hãi. Bồ-tát đáp lại tất cả hoàn cảnh một lòng từ bi. Coi kẻ thù là ân nhân, nhờ họ ta thành nhẫn đạo. Vả lại trong sanh tử xoay vần, tất cả chúng sanh đã cùng nhau làm cha mẹ anh em. Sanh nhẫn vô lượng phước, pháp nhẫn vô lượng tuệ. Đủ phước đức trí tuệ như người có hai mắt hai chân, tùy ý muốn đi đâu cũng đến.
Trong các phiền não, giận là gốc ác. Giết xong giận mới hết lo vì quả báo của sân đáng sợ nhất. Bồ-tát nguyện cho tất cả chúng sanh được an vui. Còn nuôi giận là còn đi ngược với bản hoài. Không còn giận tức sẽ có tất cả lành.
Giận tức nổi lên rồi, đâu còn biết thiện ác tội phước lợi hại gì nữa. Cũng không biết mình đang khổ nhọc. Giận mất khôn, đâu còn biết nỗi khổ của người khác huống chi còn nhớ tới ba đường ác mình đang đi vào. Lồng ngực đã chứa giận tức thì ruộng thức đang cấy mạ độc.
Nếu không đức nhẫn, đời nay hối hận, đời sau vào địa ngục, có thể giận tức với quỷ đầu trâu không? Làm rồng độc, rắn ác, sư tử, hổ lang bao giờ tỉnh ngộ để ra khỏi cái nghiệp nguy hại này? Quỷ ác, lửa từ ruột gan ngày đem phực ra miệng. Thì ra lúc gieo nhân lửa sân giận vẫn thế, từ miệng phực ra đốt mình đốt người. Bồ-tát hằng quan sát thân ta thân người chỉ có giả danh. Ngu si mới đem lòng giận dỗi những túi thịt bộ xương. Sân giận là ma pháp. Bồ-tát cầu học Phật đạo, cẩn thận chớ lạc đường ma. Vô lượng nhân duyên tự giác như thế gọi là sanh nhẫn (nhẫn với chúng sanh).
Nhẫn với các pháp gọi là pháp nhẫn như lạnh nóng gió mưa (ngoại cảnh), đói khát già bệnh (trong thân), tham sân kiêu mạn (nội tâm). Bởi vì tâm ác tự sanh tội khổ. Giết người mà tâm vô ký không tội. Lành niệm chúng sanh tuy không cho gì mà được vô lượng phước. Bồ-tát đại nguyện dù khổ địa ngục A-tỳ còn vì chúng sanh nhẫn chịu, huống chi những khổ trong loài người. Cho nên khổ trong khổ ngoài, Bồ-tát đều tập nhẫn coi như được uống cam lồ.
VI. TINH TẤN
Tinh tấn trừ lười biếng, trễ nải, các tướng giải đãi. Vì tại gia do đây mất tài lợi phước lợi. Xuất gia do đây kém trí tuệ. Sự nghiệp giải thoát đành hư hỏng. Nhờ tinh tấn, Bồ-tát được tất cả Phật pháp, độ tất cả chúng sanh, diệt tất cả phiền não. Lười biếng như đám mây đen che lấp trí tuệ. Lười biếng như lửa âm ỉ phá dần cả rừng công đức. Người mắc bệnh lười biếng tuy nghe diệu đạo mà chẳng thể ích thân, tuy có gieo nhân mà chẳng hy vọng gặt hái kết quả.
Bồ-tát cầu giác ngộ chẳng phải vừa khởi tâm phiền giác chứng ngay. Cũng chẳng phải do ngồi đạo tràng Bồ-đề mà chứng quả. Cốt yếu thành Phật chính do bền bỉ công phu nhiều kiếp tương tục không gián đoạn. Nước một phen đã chảy xiết thì đá lớn dù không bị cuốn trôi cũng bị mài mòn. Phương tiện tu hành, thường xuyên không bỏ, có năng lực phá núi kết sử, cạn biển phiền não.
Bồ-tát tinh tấn, mong sớm thành Phật đạo, để đưa chúng sanh ngu đần ra khỏi ba đường ác. Bồ-tát đem thân cứu chúng sanh, chúng sanh phản lại báo hại. Bồ-tát tán thán khen ngợi khuyến khích, chúng sanh đáp bằng hủy nhục. Bồ-tát cung kính tôn trọng, chúng sanh đáp bằng khinh mạn. Bồ-tát lành thương thì họ mưu mô xoay sở. Trong những hoàn cảnh ấy, Bồ-tát đại nguyện: ta cầu Phật đạo chính vì để độ những người này.
Bệnh nhân bị quỷ ốp tha hồ chửi mắng cho đến gậy dao đánh chém. Thầy thuốc không quản ngại vì biết đây là lực của ma quỷ. Không phải lỗi của bệnh nhân. Cũng thế, chúng sanh đối xử với Bồ-tát đủ thứ tàn tệ. Bồ-tát vẫn một lòng tế độ, không quản ngại vì biết những thứ điên cuồng này là do phiền não ốp, bản chất của chúng sanh vốn là tánh Phật.
Bồ-tát quan sát vạn pháp hư dối chỉ do nhân duyên hòa hợp giả hiện. Bồ-tát không hề thấy có ta, có người, có chúng sanh, có sự nghiệp độ sanh. Sống với tánh bình đẳng này là chân tinh tấn. Đáng thẹn hổ nhất là khởi tâm nhị thừa. Phát tâm độ khắp chúng sanh mà gặp chút khó khăn lại quay về mong cầu Niết-bàn. Ví như người sửa soạn cỗ bàn để thết đãi cả làng mà sau lại sanh tâm bỏn sẻn muốn một mình ăn cả.
VII. THIỀN ĐỊNH
Bồ-tát trừ năm dục, bỏ năm cái, hành năm pháp được sơ thiền. Chúng sanh từ vô thủy khổ vì năm dục mà vẫn tìm cầu. Năm dục là năm trần: sắc thanh hương vị xúc. Năm dục hễ được liền chuyển mạnh như lửa gặp mồi. Năm dục vô ích như chó gặm xương. Năm dục thêm tranh như quạ giành thịt. Năm dục đốt người như cầm đuốc ngược gió. Năm dục nguy hại như giẫm phải rắn độc. Năm dục không thật như vật trong mộng. Năm dục không bền như vật mượn tạm. Thế gian ngu mê tham đắm đến chết vẫn còn tham như leo cây hái trái, bị chặt gốc rồi mà vẫn chưa muốn xuống. Liếm mật ngọt trên dao bén, mấy ai biết đề phòng cái nguy đứt lưỡi. Pháp ưa năm dục là của thú vật. Người trí tu thiền để xa lìa năm dục.
Ba Ngũ cái:
1) Biết thẹn hổ vào đạo, cầm bát phước chúng sanh, sao còn ưa dục trần tự chìm ngụp trong năm tình.
2) Sân là gốc để mất các pháp lành, là nhân đọa các đường ác, là pháp oan gia, là giặc trong đạo giác, là nguồn chảy những lời độc ác, là mầm của rừng tội lỗi.
3) Thùy miên: Hãy đứng dậy! Chớ ôm xác chết mà nằm. Đất nước gió lửa giả danh là người! Toàn vật bất tịnh! Thân là chỗ trăm khổ tụ hội. Ba cõi không an như nhà cháy. Kết sử chưa diệt, sanh tử cuốn trôi, rắn độc đang ở trong nhà, thân đứng trong trận tuyến, làm sao an ngủ? Ngủ là đại ám, lừa dối cướp ánh sáng. Ngủ đã che tâm, trí tuệ chìm sâu, nghiệp si làm chủ. Sau này quả báo làm con sò ở đáy biển, mỗi giấc ngủ cả ngàn năm. Rồi còn địa ngục hắc ám kia! Ai ơi mau mau tỉnh!
4) Trạo hối: Nhiếp thần còn khó bảo vệ tâm xuất thế huống chi trạo tán. Hối như mũi tên đã cắm vào tâm rất khó rút ra. Chẳng nên làm mà cứ làm. Nên làm mà chẳng làm. Hối não như lửa cháy, đời sau đọa đường ác. Kẻ trí có lỗi, sám hối rồi an tâm. Một dạ đi đường lành, tâm an mới giải thoát.
5) Nghi: Phát xuất do ngu si mờ mịt không thể quyết định. Vì thiếu lòng tin nên ở trong Phật pháp không thể mạnh mẽ tu hành. Người tu cần bỏ năm cái như mắc nợ mong trả xong, như bệnh nặng mong được khỏi, như đói khát ước ao giàu vui, như ở trong giặc mong ra thoát, như từ địa ngục thèm khát tự do. Hết ngũ cái mới hết lo, mới nói đến an ổn.
Nương đạo nào được sơ thiền? – Quán hơi thở, quán bất tịnh. Hàng ngày lửa trần lao thiêu đốt. Nay được sơ thiền như vào ao tắm mát. Như nghèo được báu, tâm rất vui mừng. Thô niệm là giác. Tế sát là quán. Cũng gọi là Tầm Tứ. Như con ong siêng năng vừa ra khỏi tổ lo đi tìm hoa là Tầm. Bay quanh hoa nhiều vòng, xét kỹ rồi mới vào hút nhị là Tứ.
Giác quán tuy lành như làm loạn thiền định. Cột tâm một chỗ, không giác không quán, định sanh hỷ lạc, sẽ nhập nhị thiền. Hành giả lại xét hỷ động nên xả. Chỉ còn lạc là nhập tam thiền. Người phàm tới đây dễ sanh đam luyến. Nếu biết lạc (vui) vẫn còn động, nhất tâm thanh tịnh sẽ nhập tứ thiền, không khổ không vui, trí tuệ bất động.
Hành giả niệm sắc, thân và cảnh đều hư vọng. Không quán thành tựu như chim thoát lồng được Không-xứ định. Hành giả lại quán hư không nhân thức phân biệt thấy ra, không phải thật có. Bỏ không duyên thức, được Thức-xứ định. Chán thức ràng buộc nhập Vô-sở-hữu-xứ định, tiến lên phi tưởng phi vô tưởng xứ (vô sắc giới). Phàm phu diệt tâm vào vô-tưởng định. Đệ tử Phật vào diệt-thọ-tưởng định.
Bốn vô lượng tâm, năm thần thông, ba môn giải thoát, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, vô thượng diệu lạc, chúng sanh không hưởng mà cứ mải miết đi tìm con đường trầm luân. Bồ-tát xót thương ban cho thiền lạc, đưa vào Phật đạo vĩnh viễn an vui. Ví như kẻ mồ côi từ nhỏ. Cha mẹ để cho rất nhiều của báu mà không biết, cứ cam phận đi ăn xin. Tâm chúng sanh vốn đủ các thiền định cực vui nhiệm mầu, không biết khai phát, quay ra khao khát sáu trần ảo ảnh để tự dẫn thân vào các địa ngục.
Bồ-tát thiên nhãn thấy các trời cõi dục hết báo đọa địa ngục. Các trời cõi sắc hết phước đọa về cầm thú. Lại thấy trong loài người những kẻ học nhiều không đắc đạo Thánh, chỉ được thế trí biện thông. Hết phước đọa làm heo dê, ngu si mê muội chẳng còn biết gì. Như thế muôn loài mất vui lớn chịu khổ to, mất lợi lớn chịu suy to, mất tôn quý chịu hèn hạ. Cho nên Bồ-tát không tiếc thân mạng, cần hành tinh tấn mong cầu Phật đạo.
Đắm vui thiền định là ái. Tự cao vì đắc định là mạn. Chấp ngã thủ tướng nhập thiền là kiến loạn. Từ ba thứ vi tế này thoái dần vào ba độc.
Khi được thiền định, một lòng ưa thích, đó là hưởng vị. Thiền bền trụ nhiếp tâm. Ái chuyên đắm khó bỏ. Đắm nhiễm thiền định thì hoại thiền định. Cũng như bá thí mà mong hiện báo thì không phước đức.
Bồ-tát biết thật tướng các pháp, không thọ thiền vị, không cầu quả báo ở trời sắc vô-sắc mà chỉ tu thiền định để điều phục vọng tâm tiến tới thể nhập chân không diệu tánh.
VIII. BÁT NHÃ
Huyễn thuật tuy không có căn bản mà vẫn khiến người thấy nghe. Vô minh không thật chất mà dấy lên mười hai nhân duyên, xây dựng các pháp hữu vi, tiếp nối không cùng.
Ở xa cho dương diệm là nước, lại gần mới biết là không. Người kém trí chẳng biết ấm giới nhập tánh không, sanh tưởng người vật, hay dở, vinh nhục. Bồ-tát học Thánh pháp, biết thật tướng nên vọng tưởng tan. Trẻ nít cho mặt trăng dưới nước là thật. Phàm phu chấp thân kiến. Thánh nhân coi sắc như bọt nổi, thọ như bóng ảnh, tưởng như nắng quái, hành như bẹ chuối, thức như ảo thuật. Mộng không thật nhưng người còn trong mộng vẫn mừng vẫn sợ. Tỉnh rồi mới tự cười. Sự vật vô lượng vô biên đều từ nhân duyên giả hiện, không tự tánh nên ví như bóng trong gương.
Bồ-tát từ mới phát tâm cầu Nhất-thiết-chủng-trí, biết thật tướng, không vướng mắc tất cả mọi pháp, là có trí Bát Nhã. Bồ-tát quán các pháp không hai, cũng chẳng cố chấp không hai, chẳng cậy ta tu pháp quán ấy. Tất cả các pháp như tướng Niết-bàn gọi là thật tướng. Phật pháp quý trọng giải thoát trên hết. Đức Phật so sánh: Một người vô lượng kiếp hành năm ba-la-mật, dùng pháp có chỗ được, tu tập mọi căn lành. Một người dùng trí không chỗ được (vô sở đắc) tùy hỷ công đức người trên rồi hồi hướng Vô-thượng Bồ-đề. Phước người sau hơn phước người trước trăm ngàn vạn ức phần. Nhẫn đến không thể dùng toán số để thí dụ. Vì phước trên tuy lớn bao nhiêu nhưng vẫn còn có lượng, nghĩa là có hết, có tạp độc sanh tử, có thể thoái lui. Còn phước người sau vì còn có tuệ Bát Nhã nên quyết định mau tới Vô-thượng Bồ-đề.
Maha: lớn. Bát Nhã: trí tuệ. Ba-la-mật-đa: đưa tới bờ bên kia (Nhất-thiết-trí).
Tất cả Phật, Bồ-tát, Bích Chi, Thanh-văn đều từ Bát Nhã ba-la-mật sanh. Bát Nhã cho đại quả Niết-bàn kiên thật, không lường, không tận. Còn năm độ kia nếu không kèm Bát Nhã chỉ cho quả báo thế gian.
Người hành trí tuệ chân không, đời này giác tỉnh, mai sau làm Phật. Người quán chân không làm vô lượng bá thí, trì giới, thiền định. Khác hẳn với tà kiến chấp không, đoạn hết căn lành, hiện đời là kẻ ác mai sau vào địa ngục.
Bát Nhã ba-la-mật vô tướng vô đắc, chúng sanh làm sao mà vào? – Phật phương tiện chỉ dạy, ta cứ nhất nhất vâng theo sẽ được. Ví như vách núi dốc cao, nhờ thang ta lên được. Nước sông quá sâu, nhờ thuyền ta qua được. Với người mới học hãy dạy phân biệt chánh tà tội phước. Ba nghiệp thân miệng ý khi thiện khi ác của mỗi con người chính là tạo hóa đã vẽ ra sáu đạo luân hồi. Cho nên phải tập giữ cho tròn năm giới rồi mười thiện. Thập thiện tuy chưa ra khỏi luân hồi, chưa thật giải thoát nhưng là nền móng Thánh Hiền. Rời thập thiện không có đạo Phật. Rồi dạy quán quả báo của phước đức là cõi trời cõi người vô thường vô ngã khổ và không, khiến phát được tâm xuất thế. Tự biết tự chứng bốn Thánh lý này gọi là đắc đạo.
Phương pháp dễ vào nhất là niệm chết. Hơi thở ra không vào thế là người chết. Chết không phân giàu nghèo, sang hèn, thiện ác, người vật, già trẻ. Không cầu đâu cứu nổi. Không cách nào thoát khỏi. Hoàn toàn không đặc biệt miễn cho ai. Ai cũng ghét sợ mà không một ai tránh được. Chúng sanh ba đường ác không thể tu đạo nghiệp. Con người có trí tuệ hãy quan sát sự thật này:
Thần thức làm chủ thân, thấy nghe ăn nói, làm tội làm phước, rông rỡ buông lung, nay đi đâu rồi? Để lại thây xác trương phình. Mày cao mắt sáng da mỏng môi tươi, sắc đẹp nay đâu? Túi thịt hôi tanh nứt loét mủ chảy, nùng huyết thối nát, dòi bọ hóa sanh. Thân chúng ta không bao lâu nữa quyết định cũng sẽ như thế.
Trước kia son phấn điểm trang, nay mủ máu khắp mình. Trước kia lan xông xạ ướp nay thịt da thối nát. Nếu không đốt chôn, để ở rừng hoang thì chó gặm chân tay, hổ lang móc ruột. Chim moi mắt, trùng rúc thịt. Những tử thi đem thiêu, bụng vỡ mắt lồi, chốc lát biến thành tro than. Ta nay khác gì? Phàm đã có thân đều quy vô thường.
Kinh dạy: Có hai cửa cam lồ là quán bất tịnh và quán hơi thở ra vào. Chấp ngã là ngu si mở ra tham sân. Quán bất tịnh phá chấp ngã nên nhẹ cả ba độc. Tất cả kết sử nhân đây sẽ lung lay. Quán bất tịnh là bước đầu tiên để thành việc lớn. Xin chớ vì thấy dễ mà bỏ qua. Quán bất tịnh là cửa vào Thân niệm xứ. Bốn niệm xứ mở cửa Niết-bàn.
Thanh-văn quán bất tịnh cầu xa lìa sanh tử sớm chứng Niết-bàn là phải. Còn Bồ-tát cần trụ sanh tử để tế độ chúng sanh, sao lại quán bất tịnh để rơi vào chỗ chứng của nhị-thừa? – Đáp: Chúng sanh vì ba độc chịu khổ kiếp này sang kiếp khác. Ba độc này không bao giờ tự diệt. Cũng không có cách nào khác để trừ tiệt được. Quán bất tịnh cắt đứt chấp ngã, khô kiệt ái luyến trong thân và ngoài thân. Chấp ngã là mối kết từ vô thủy trải lịch kiếp, như cây cổ thụ đã quá lâu năm. Các pháp quán khác chỉ như dao chém tỉa quanh. Phải có búa rìu như quán bất tịnh mới có thể bủa tận gốc. Vả lại trí Bát Nhã vẫn biết trong tánh chân không, không hề có tướng vô thường bất tịnh. Tịnh và bất tịnh đều là điên đảo. Chỉ dùng thuốc để chữa bệnh, khỏi rồi thôi, đa mang thuốc nữa làm gì. Cốt yếu là được ba pháp ấn: vô thường, vô ngã và tịch diệt. Được rồi không cần lý luận nữa. Như người đã được chữa khỏi mắt rồi, thấy các bạn còn mù bàn cãi về sắc tướng thì chỉ xót thương mà cười chớ không nhập cuộc.
IX. KINH ĐẠI BÁT NHÃ
Đức Phật hỏi vua trời: Này Kiều Thi Ca, nếu đem xá-lợi Phật đầy cõi Diêm Phù Đề làm một phần, lại có người chép quyển kinh Bát Nhã ba-la-mật làm một phần. Trong hai phần này ngươi chọn phần nào? – Lạy đức Thế Tôn, con chọn kinh Bát Nhã. Chẳng phải con không tôn trọng xá-lợi Phật nhưng xá-lợi được cung kính chính vì đã được Bát Nhã huân tu.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: Bát Nhã không hình tướng làm sao lấy? Bát Nhã chẳng do thủ mà có, chẳng do xả mà có. Chẳng do thêm bớt, hợp tan, tổn ích, nhơ sạch mà có. Bát Nhã chẳng thủ pháp Phật, chẳng bỏ pháp phàm. – Đúng thế, thưa Ngài Xá Lợi Phất. Biết thế là thực hành Bát Nhã. Pháp chẳng hai là Bát Nhã. Tất cả thế gian phải đảnh lễ Bát Nhã vì nhân đây đại Bồ-tát được vô thượng Bồ-đề. Ở Thiện Pháp Đường các Thiên tử không thấy con đều hướng về tòa ngồi của con mà đảnh lễ. Cũng thế tám bộ thiên long hướng về cuốn kinh đảnh lễ Bát Nhã. Đức thế Tôn biết Bát Nhã đích thực không tướng mạo, không lời nói mới chứng Vô thượng Bồ-đề. Rồi vì chúng sanh giảng pháp không tướng mạo, không lời nói.
Lạy đức Thế Tôn thọ trì, biên chép, cúng dàng kinh Bát Nhã được quả báo không đọa ba đường ác, không lạc nhị-thừa, từ cõi Phật này sang cõi Phật khác, hằng được cúng dàng Tam Bảo rốt ráo sẽ được vô thượng Bồ-đề.
Lạy đức Thế Tôn, cuốn kinh Bát Nhã với đức Phật hiện tại không hai không khác. Vì thế ai có duyên được cúng dàng xá-lợi Phật được hưởng phước vui trời người, dần dần theo tam thừa Thánh giáo mà được Niết-bàn.
Luận rằng: Người cầu sung sướng ham phước đức. Người cầu giải thoát ham trí tuệ. Người ham phước đức cầu xá-lợi. Người ham trí tuệ cầu kinh Bát Nhã. Có thân là có xương cốt, có gì đáng quý. Nhưng một khi huân tu Bát Nhã được thành Phật thì người cung kính cúng dàng xương cốt phước đức vô cùng. Cúng dàng xá-lợi nhỏ bằng hạt cải công đức đã vô lượng vô biên. Cho tới ngày thành Phật hưởng không hết phước. Huống chi có xá-lợi đầy cõi Diêm Phù Đề để cúng dàng.
So sánh kén chọn là vì muốn lợi ích cho hàng Bồ-tát mới phát tâm. Dùng tục đế để đưa dần người vào pháp tánh. Ngài Xá Lợi Phất nhắc nghĩa sâu: Bát Nhã là pháp tánh. Các pháp không tướng hai. Người có trí tuệ Bát Nhã không phân biệt, không cho xá-lợi là kém, Bát Nhã là hơn. Vì sâm quý đem cho người bị cảm lạnh uống trở thành độc. Bùn đất đắp chân khỏi bệnh phong thấp cũng gọi là thuốc. Với tinh thần Bát Nhã, các pháp không tướng quyết định. Lời nói lành có khi tác hại. Lời nói ác mà có lợi ích vẫn là Phật pháp.
Kinh đại Bát Nhã:
Vua trời bạch Phật: Pháp có hai tướng: hữu vi và vô vi. Tánh không chỗ có (vô sở hữu) là tự tánh của các pháp.
- Đúng thế Kiều Thi Ca, Bát Nhã chẳng cao thấp, chẳng bên này bên kia, chẳng thế gian xuất thế gian, chẳng hữu vi vô vi, chẳng quá khứ hiện tại vị lai.
- Vì tánh của Bát Nhã không chỗ có, chẳng thể được. Chỗ chẳng thể được cũng chẳng thể được.
- Đúng thế, này Kiều Thi Ca, vô thượng Bồ-đề còn chẳng thể được huống chi Bồ-tát và pháp của Bồ-tát.
- Lạy đức Thế Tôn! Vậy chỉ cần học Bát Nhã, chẳng cần tu các pháp khác.
- Chính vì không chỗ được nên Bồ-tát phải học tất cả các pháp.
Lạy đức Thế Tôn, biên chép Bát Nhã rồi đúng như lời kinh mà thọ trì và biên chép để đem cho người khác, phước nào nhiều hơn?
Vì sao Phật nhập Kim-Cang tam-muội làm nát thân bằng những hạt xá-lợi bằng hạt cải? – Vì ai cúng dàng một hạt xá-lợi sẽ được phước đức vô biên.
- Đúng thế! Này Kiều Thi Ca, biên chép Bát Nhã cho người khác đọc được phước rất nhiều. Nếu lại đúng nghĩa mà giảng nói thì công đức càng hơn. Ai được nghe phải coi người này như Phật. Này Kiều Thi Ca, khắp thế gian không ai bằng Phật huống chi hơn. Ta nương Bát Nhã được thành Phật nên hằng cung kính tán thán cúng dàng Bát Nhã. Cho nên cả tam thừa Thánh chúng đều phải nhất tâm hương hoa cúng dàng Bát Nhã.
Luận rằng: Hữu vi là trước không sau có, có rồi lại hoàn không. Trái lại là vô vi. Trong Bát Nhã, pháp hữu vi lành là chỗ phải làm, pháp vô vi là chỗ nương tựa. Đây là chỗ học của Bồ-tát mới phát tâm. Nếu được lực phương tiện của Bát Nhã ba-la-mật hợp với vô sanh nhẫn thì không ái pháp hành, không lìa hữu vi có vô vi nên không nương Niết-bàn. Bát Nhã rộng nói cả ba thừa. Y tục đế dùng lời nói đưa người vào đệ nhất nghĩa đế. Bồ-tát hành thật tướng, hằng quán tâm chúng sanh mà không thấy có chúng sanh. Hành tất cả pháp môn mà không chấp một pháp môn nào. Vì Bát Nhã ba-la-mật không chỗ được (vô sở đắc).
Muối là chủ gia vị cũng là chất thiết yếu trong sự cấu tạo của các tế bào. Nhưng nếu chỉ ăn muối đơn độc thì chẳng những khổ miệng mà còn sanh bệnh. Người tu tham chấp riêng hành Bát Nhã thì chẳng những công đức mất thâm diệu mà còn rơi vào tà kiến. Bát Nhã kèm theo bá thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, v.v… mỗi thứ đều tiến tới ba-la-mật. Bát Nhã rồi các thiện nghiệp, đứng một mình, trở thành chấp không. Cho nên phải thành tựu tất cả các pháp lành thế gian và xuất thế gian mới gọi là có trí tuệ Bát Nhã. Màu xanh của lá cây là do mặt trời mà có. Nhưng nếu không có lá cây thì tìm ở các tia sáng mặt trời làm sao ra chất xanh. Cho nên Bồ-tát phải học tập tất cả Phật pháp. Do đây Bát Nhã mới có thể hiện hành phương tiện vô sở đắc. Tuy các pháp môn hòa hợp nhưng Bát Nhã vẫn là chủ.
Thọ trì Bát Nhã là việc khó còn việc viết chép cho người là việc dễ mà sao công đức lại hơn? Bởi vì bo bo mong cho mình thành Phật. Trong đây vẫn thầm chấp ngã nên công đức nhỏ. Quên mình vì người chỉ một dạ từ bi nên phước lớn.
Bát Nhã ba-la-mật là gốc của Bồ-tát. Bồ-tát là gốc thành Phật. Phật là nhân duyên an vui lợi ích của tất cả thế gian và xuất thế gian. Tự tâm tin kính lại cúng dàng xá-lợi Phật như hạt giống tốt gặp ruộng màu mỡ tất nhiên thu hoạch được nhiều. Chép kinh Bát Nhã đem cho người đọc tụng và giải nói, công đức vi diệu không thể nghĩ bàn. Vì có vui theo trí tuệ mới chép Bát Nhã. Có đại bi mong cho người thành Phật mới bá thí kinh. Vô minh đích thực là cái đầu của con rắn mười hai nhân duyên. Kiếm trí tuệ phải thẳng tay trừng trị. Nó đứt đầu thì ta mới sống. Trong kinh Lăng Nghiêm, ngài A Nan sau khi nói kệ trình bày chỗ đã ngộ, thỉnh Phật chỉ cho cửa vào nhà. Vào được nhà tức là trở về sống thật với chân tâm Bát Nhã, bản tánh của mình. Kinh Pháp Hoa gọi là nhập Phật tri kiến.
X. TỪ BI
Đại từ là ban vui cho tất cả chúng sanh. Đại bi là gỡ khổ cho tất cả chúng sanh. Cha mẹ có con đang bị tù, xót thương tìm phương tiện cho đỡ khổ là Bi. Cấp phát cho những thứ để vui lòng là Từ. Từ Bi là căn bản của đạo Phật. Bồ-tát thấy chúng sanh thân khổ vì sanh già bệnh chết, tâm khổ vì ba độc nấu nung. Ngoại cảnh còn đem lại các thứ tai nạn. Hết tuổi thọ thì địa ngục, ngã quỷ, bàng sanh, ba đường kịch khổ của kiếp trầm luân đợi chờ. Vì thế Bồ-tát ở trong vô lượng a-tăng-kỳ sanh tử không chán mỏi, dù được Niết-bàn cũng không thủ chứng, biến hiện đủ thứ thân hình để gần gũi chúng sanh, tìm đủ cơ duyên để tế độ. Đời đời đem đầu, mắt, tay, chân, tủy, não bố thí mà không hối không tiếc.
Trí tuệ Phật rất cao, rất sâu, rất quý. Chúng sanh vì chẳng thể đo lường nên ít quan tâm. Với lòng từ bi cứu khổ ban vui của đức Quán Thế Âm, đức Địa Tạng v.v… chúng sanh thấm thía khát ngưỡng. Trí tuệ như thuốc đắng rất cần thiết nhưng chúng sanh ít ưa. Từ bi như bánh ngọt chúng sanh nào cũng ham thích. Trí tuệ chỉ người đạt đạo mới tin nhận. Từ bi thì tạp loại chúng sanh, chẳng loài nào không đón mừng. Tướng trí tuệ là buông xả, là viễn ly. Tướng từ bi là xót thương, là lợi ích. Chúng sanh nương đây được an được vui nên cảm mến. Từ bi là căn bản Phật pháp. Duyên chúng sanh đau khổ mà phát sanh cũng như hoa sen vi diệu chẳng ngoài hôi tanh của bùn lầy mà có.
Phạm chí Tu Bạt Đa bảo Anan: Bậc Nhất-thiết-trí đêm nay vào Niết-bàn, xin cho tôi yết kiến. Anan từ chối. Tu Bạt Đa năn nỉ. Phật cho người ra gọi vào. Tu Bạt Đa nghe pháp, chứng A-la-hán tại chỗ. Phật kể chuyện cho cả đại chúng biết nhân duyên quá khứ:
Vô lượng a-tăng-kỳ kiếp xưa, một rừng cây bốc lửa. Các loài thú đổ xô về phía có một dòng nước, tìm cách thoát thân. Một con nai lớn thân to sức nhiều, đưa hai chân trước chống bờ bên này, hai chân sau chống bờ bên kia. Cúi đầu cho các thú đạp trên lưng mà qua. Trong lúc vội vàng, con nào con nấy, móng vuốt bấm chặt cho khỏi bị ngã. Da thịt tan nát, khí lực đã hết, nai gắng sức nhẫn chịu. Cho tới con thỏ cuối cùng đi qua thì xương sống gẫy. Nai là tiền thân của đức Bổn Sư. Thỏ nay là Tu Bạt Đa.
Trí tuệ Bát Nhã biết sáu căn huyễn hóa, sáu trần ảo ảnh, sáu thức mê lầm nên sẵn sàng buông xả bản thân, của cải, tình ái. Có thế mới đảm đang được những việc khó làm. Đời này sang đời khác hy sinh cả vợ con, tiền của, đầu mắt, tay chân, cho đến cả tâm hồn và giải thoát mà không tự thấy là mình bá thí. Bát Nhã quả thật là một sức mạnh vô song, tự lợi lợi tha kiếp này sang kiếp khác không cùng không tận.
XI. BIẾT ƠN, ĐỀN ƠN
Cung kính Thầy là điểm quan yếu. Nương Thầy được đạo nên bổn phận phải kính quý. Nhưng nếu gặp Thầy ác thì làm sao coi như đức Thế Tôn? Bồ-tát không nên thuận theo thói đời, gặp hay thì ái nhiễm, gặp dở nếu không chống đối cũng xa lìa. Bồ-tát chỉ biết ơn khai nghĩa giải nghi, không nghĩ chuyện chi khác. Như đất và gỗ thật không công đức. Nay tạo nên hình tượng Phật. Người hướng về tưởng đến Phật, được vô lượng phước đức. Huống chi Pháp sư là bậc phương tiện khai mở trí tuệ cho thế gian. Bồ-tát hằng coi tất cả chúng sanh đều là chư Phật vị lai. Huống chi Pháp-sư hiện tại đang làm Phật sự.
Có kẻ nói: Ta do phước đức đời trước nên được thế này, đâu có phải nhờ ai cho mà được. Đây là lời của tà kiến. Phật dạy Bồ-tát phải biết ơn đền ơn. Đã đành do nhân đời trước nhưng cũng phải nhờ duyên đời nay. Lúa trồng trên đất nhưng nếu không thêm mưa thì làm sao lúa mọc. Nên chẳng thể nói không ơn mưa. Người xuất gia thọ nhận bốn sự cúng dàng. Vì đã trồng phước đức đời trước nên nay không cần biết ơn thí chủ hay sao? Biết ơn trăm họ là gốc đại bi, cửa đầu nghiệp thiện, chết sanh cõi trời, sẽ thành Phật đạo.
Kinh Bổn Sinh: Một tiều phu vào rừng đốn củi, lạc lối, quên đường, tối trời lại mưa to. Tiếng thú dữ đó đây gầm rống. Vào một hang đá, thấy một con gấu lớn, vội lùi. Gấu cất tiếng người: “Chớ sợ, cứ vào, nơi đây yên ổn”. Mưa tầm tã luôn bảy ngày. Gấu cung cấp quả ngọt. Tạnh mưa gấu chỉ đường về, ân cần dặn dò: “Tôi chịu thân tội báo nên nhiều oan gia, xin chớ cho ai biết chỗ ở của tôi”.
Ít lâu sau, một người thợ săn hỏi tiều phu: Anh từ rừng ra, có gặp thú vật không? – Có một gấu lớn nhưng tôi không thể chỉ chỗ cho anh được. – Anh là người nên cùng người làm thân, cớ sao tiếc gấu? Hãy chỉ cho tôi, sẽ chia thịt phần hơn cho anh. Người kiếm củi chỉ hang đá. Thợ săn giết gấu, đem phần về. Tiều phu đưa hai tay bưng nhận. Tức thời hai cánh tay rụng rơi xuống đất. Tin đồn tới tai vua. Vua ra lệnh xây tháp cúng dàng gấu và truyền rao khắp nước: phải biết ơn, đền ơn.
Khắp cõi Diêm-phù-đề tin chịu vâng làm.
Đại Bồ-tát Tát Đà Ba Dôn hiện nay đang hành đạo ở cõi Phật Đại Lôi Âm. Tiền thân Ngài cầu Bát Nhã ba-la-mật, thấy trong hư không có đức Phật hiện thân dạy phải đi về phương Đông, thành Chúng Hương, tìm Bồ-tát Đàm Vô Kiệt. “Thiện tri thức này sẽ dạy ngươi vô thượng Bồ-đề. Trong Phật pháp ngươi phải một lòng tin thanh tịnh, coi thiện tri thức như Phật”.
Hốt nhiên không thấy Phật nữa. Tát Đà Ba Dôn khởi nghĩ: Phật từ đâu đến, nay đi về đâu? Và quyết định đi tìm Đàm Vô Kiệt Bồ-tát để thưa hỏi việc này. Được đáp rằng: “Ví như cuối xuân trời nắng. Có người đuổi theo ánh nắng dợn cầu nước. Nước này từ đâu đến nay chảy về đâu? – Bạch Đại sư, người không có trí, bị khát bức ngặt, thấy nắng dợn tưởng ra là nước, chớ đâu thật có nước.
Này người lành! Chư Phật không thể lấy sắc tướng mà thấy. Pháp thân chư Phật không hình không tướng nên không đến không đi. Nhà ảo thuật biến hóa ra nam nữ cây cỏ. Cảnh ảo này từ đâu đến? Sẽ đi về đâu? Người ngủ mê nằm mộng. Cảnh vật thấy trong mộng từ đâu đến sẽ đi về đâu? Châu báu trong biển cả, không từ đâu lại, chỉ do căn lành của chúng sanh mà cảm hiện. Khi hết phước duyên thì châu báu tự hết, không đi về đâu. Tiếng đàn không hầu, chẳng từ tay gẩy ra, chẳng từ thùng đàn, có hay không chỉ theo duyên tan hợp. Thân Phật từ bản nghiệp nhân duyên quả báo sanh, hết duyên thì diệt. Phải biết tướng đến tướng đi của chư Phật là như vậy. Phải biết tướng đến tướng đi của vạn pháp cũng như vậy. Biết như thế là hành Bát Nhã ba-la-mật, có sức phương tiện, quyết được vô thượng Bồ-đề. Vì không biết thật tướng các pháp, người mê phân biệt các pháp đến đi sanh diệt, oán thì ghét, yêu thì thân, hay thì quý, dở thì khinh, tâm không bình đẳng, mở cửa ác thú, đi mãi trong sáu đạo luân hồi. Nếu biết thật tướng, không vọng phân biệt. Sống với chân tánh thường tịch quang là chân Phật tử, vô thượng phước điền của thế gian”.
Nói xong Đàm Vô Kiệt nhập thất luôn bảy năm. Cũng luôn bảy năm Tát Đà Ba Dôn giữ lễ đệ tử, kinh hành ở ngoài thất, không ngồi không nằm. Vì quý trọng Bát Nhã quá sanh vướng trược. Đàm Vô Kiệt tới hẹn kỳ xuất định, thuyết pháp phá sự vướng trược ấy: “Tánh của vạn pháp tự không, chẳng phải do Bát Nhã làm cho thành không. Coi rẻ các pháp môn khác, riêng quý Bát Nhã là đã sanh tâm chấp trược Bát Nhã. Chủ đích trí tuệ Bát Nhã là gỡ cởi tất cả thủ chấp. Nay trở lại thủ chấp Bát Nhã thì đâu còn Bát Nhã. Như vàng nóng tuy thật đẹp nhưng chớ đưa tay cầm nắm”.
Tát Đà Ba Dôn lãnh giáo, do xả thủ chấp được vô lượng tam-muội, liền thấy hằng hà sa chư Phật, cùng các Tỳ-kheo vây quanh, nói Đại Bát Nhã ba-la-mật. Từ đó về sau, đa văn trí tuệ, trong mơ hằng thấy Phật, tùy nguyện vãng sanh về các cõi Phật.
XII. KẾT KHUYẾN
Tôi nay cố gắng xin diễn nói,
Đại trí bờ kia nghĩa chân thật.
Mười phương thanh tịnh Thánh trí nhân
Một lòng thiện thuận nghe tôi nói:
Ngã ái, ngã sở cần diệt trừ,
Sự nghiệp thế gian buông rũ sạch.
Hữu học, vô học tự trang nghiêm, Hết thảy công đức là tối thượng!