CHUADUOCSU.ORG
Kinh Niệm Phật Ba La Mật
Hán dịch: Pháp-sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Hòa-thượng Thích Thiền Tâm
Tỳ-kheo-ni Hải Triều Âm toát yếu
DUYÊN KHỞI
Chính tôi được nghe: Một thuở nọ, đức Phật kiết hạ tại núi Kỳ Xà Quật, gần thành Vương Xá với chúng đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị: Trưởng lão Xá Lợi Phất, Ma-ha Mục Kiền Liên, Ma-ha Ca Diếp, Ma-ha Ca Chiên Diên, Tu Bồ Đề, La Hầu La, Phú Lâu Na, A Nan, A Na Luật Đà, Ma-ha Ba Xà Ba Đề, Da Du Đà La…
Lại có tám muôn đại Bồ-tát từ mười phương đến tham dự: Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Di Lặc, Địa Tạng, Diệu Âm, Đại Cường Tinh Tấn Dõng Mãnh, Đà La Ni Tự Tại Công Đức Lâm, Trang Nghiêm Vương… đều có năng lực thâm nhập vô lượng tam muội, tổng trì môn, giải thoát môn, đã chứng Pháp-thân, đủ năm mắt, biện tài vô ngại, thần thông du hí, biến hiện đủ loại thân tướng, đi khắp các quốc độ cứu vớt chúng sanh.
Lại có các Thiên vương, Long vương, Khẩn-na-la vương, Càn-thát-bà vương, A-tu-la vương cùng vô số quyến thuộc.
Lại có Vi Đề Hy hoàng thái hậu, A Xà Thế vương, hoàng tộc, quần thần và năm trăm trưởng giả, cư sĩ cùng quyến thuộc. Tất cả đại chúng cung kính cúi lạy dưới chân Phật, lui ngồi một bên.
Trong hàng Ưu-bà-tắc, có Trưởng giả Diệu Nguyệt, quá khứ đã từng thừa sự cúng dường hằng hà sa đức Phật, y theo chánh pháp tu hành. Hiện tại làm thân cư sĩ, vợ con đông nhiều, nhà cửa nguy nga, kho tàng đầy dẫy. Tuy ở trong nhà lửa chập trùng hiểm nạn mà vẫn thực hành tuệ giác vô lậu, hết lòng thương tưởng chúng sanh như con một, thể hiện pháp thí oán thân bình đẳng.
Trưởng giả Diệu Nguyệt nhiễu quanh đức Phật ba vòng, chắp tay quỳ gối, cung kính bạch Phật:
Hy hữu Thế Tôn! Được làm thân người khó như rùa mù gặp bọng cây. Gặp Phật ra đời khó gấp muôn lần. Được nghe chánh pháp lại còn khó hơn. Nương theo giáo nghĩa tu tập lại càng khó nữa. Nay con thay vì hết thảy chúng sanh tội khổ thời mạt pháp, khẩn cầu đức Thế Tôn rủ lòng thương xót, mở một con đường thật ngắn tắt để dễ dàng giải thoát, hoàn thành Phật trí.
Trưởng giả Diệu Nguyệt vừa dứt lời thỉnh, đại địa chấn động mãnh liệt. Khắp hư không hoa mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, tuôn rắc như mưa. Từ phương Tây xuất hiện vô lượng mây ngũ sắc, mây chiên-đàn-hương, mây y phục cõi trời, mây âm nhạc cõi trời, mây hoa sen báu, chầm chậm bay về, nhóm lại phía trên đỉnh núi Kỳ Xà Quật.
Như Lai từ nơi tướng lông trắng giữa chặng mày, phóng hào quang chiếu khắp mười phương.
- Lành thay! Nương bản nguyện của chư Phật, ta nay tuyên dương giáo nghĩa vi diệu, nhằm cứu độ chúng sanh thời mạt pháp.
Giáo nghĩa này chư Phật quá khứ đã nói, chư Phật hiện tại đang nói, chư Phật vị lai sẽ nói. Chúng sanh đời mạt pháp, nương giáo nghĩa này, giải thoát đường ác, sanh về cõi Phật, chứng ngôi Bất thoái, dần dần tu tập cho đến đắc đạo Vô-thượng Bồ-đề.
Này Diệu Nguyệt! Chúng sanh chết đây sanh kia, sống chết nối nhau không dứt. Khi sắp mạng chung, các nghiệp lành dữ trong một đời, đều hiển hiện rõ ràng.
Thuần tưởng bay lên, hóa sanh ở cõi Trời. Nếu có phước tuệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở, thấy mười phương cõi Phật, tùy nguyện vãng sanh Tịnh-độ.
Tình ít tưởng nhiều, vào hạng Phi Tiên, bay đi nhẹ nhàng nhưng không được cao.
Tình và tưởng ngang nhau thì sanh cõi người. Nghiêng về tưởng, được thông minh. Nghiêng về tình, nhiều ám độn.
Tình nhiều tưởng ít, lạc vào bàng sanh, nhẹ làm chim bay, nặng làm thú chạy.
Bảy phần tình ba phần tưởng, đọa làm ngã quỷ, nóng bức đói khát, trải trăm ngàn kiếp.
Chín phần tình một phần tưởng, đọa địa ngục; nhẹ vào Hữu gián, nặng vào Vô gián.
Thuần tình đọa ngục Đại A-tỳ. Nếu kiêm trọng tội như mười ác năm nghịch, quả báo sanh về các ngục Vô gián ở khắp mười phương.
Các đức Như Lai hiện ra nơi đời, không chỉ tuyên dương diệu pháp cho các Thánh giả Hiền nhân. Mục đích khẩn yếu vẫn là cứu vớt chúng sanh tội khổ.
Phật nhãn quán sát mười phương, thấy rõ nghiệp lực, thân tướng và cảnh giới chúng sanh. Những điểm sanh khởi và chỗ hội quy, không rời sát na tâm sanh diệt. Hàng phục và chuyển biến sát na tâm sanh diệt này, không có pháp môn nào hơn niệm Phật.
Này Diệu Nguyệt! Nếu có đủ lòng tin, xưng niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, suốt ngày và trọn đời thì hiện tiền chiêu cảm Phật A Di Đà ở cõi Cực Lạc. Lâm chung giữ được mười niệm, Phật sẽ tiếp dẫn về Tây phương Tịnh-độ. Vĩnh viễn xa lìa các đường ác, không còn luân hồi sanh tử. Từ quả vị bất thoái chuyển này, về sau tiến lên Thập Địa, chứng Vô-thượng Giác.
Diệu Nguyệt nên biết! Đây thật là môn tu thích đáng khế hợp mọi căn cơ. Đây là môn tu đại oai lực, đại phước đức, khiến chúng sanh vượt thẳng thân phận phàm phu, vào cảnh giới chân thường. Đây là thuyền bè đưa qua bờ bên kia, không còn sanh già bệnh chết, hoàn toàn hưởng dụng pháp lạc. Đây là môn tu đại trang nghiêm, đại thanh tịnh, nhiếp chúng sanh vào giới luật oai nghi. Đây là môn tu nhu hòa nhẫn nhục, khiến có thể tự tại giữa khổ vô thường, thành tựu tri kiến Phật. Chúng sanh được tâm như tâm Phật, nguyện như nguyện Phật, sớm chứng từng phần Pháp-thân. Do đây Như Lai bảo rằng: Niệm Phật là vua các Pháp môn.
Này Diệu Nguyệt! Hãy một lòng tin nhận lời dạy của Như Lai. Hãy ghi nhớ kỹ lời dạy của Như Lai. Hãy thực hành theo lời dạy của Như Lai.
Bấy giờ đức Như Lai từ đôi môi đỏ như trái tần-bà, phóng quang rực rỡ, tên là Thành Tựu Thọ Quang Thể Tướng Quang Minh. Với trăm ngàn ức quang minh làm quyến thuộc. Chiếu soi mười phương thế giới tận hư không vô biên tế. Hiển hiện Như Lai các thứ tự tại: Khai ngộ vô lượng chúng Bồ-tát, chấn động hằng hà sa quốc độ, diệt trừ hết thống khổ, đóng chặt cửa các đường ác, che mờ cung điện Ma vương, phơi bày các cảnh giới Như Lai (giáng sanh, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, Niết-bàn…).
Trưởng giả Diệu Nguyệt vội cởi xâu chuỗi ngọc báu, cúng dường chân Phật, đảnh lễ: “Bạch đức Thê Tôn! Nương bản nguyện Phật A Di Đà, con được tham dự pháp hội. Đích thân nhận lãnh lời giáo huấn của Như Lai, con sẵn sàng đặt trọn tín tâm nơi giáo pháp. Chúng sanh thời mạt pháp, căn lành sơ bạc, phước đức thiếu kém, si mê che mờ. Kinh điển tuy còn sót ít nhiều nhưng chẳng ai hiểu đúng lời Phật dạy. Làm sao họ tin nhận pháp nghĩa uyên áo để tiến tu Phật trí?
Bạch đức Thế Tôn! Con vẫn tưởng niệm Phật để thành Phật. Sao hôm nay đức Thế Tôn lại ân cần khuyên phát nguyện vãng sanh cõi An Lạc ở tận Tây phương?
Đức Thích Ca mỉm cười, xoa đầu Trưởng giả: Hay thay! Hay thay! Diệu Nguyệt! Đây là pháp tối thượng Nhất thừa, đúng thời Như Lai mới nói. Như hoa Ưu-đàm-bát-la mấy muôn ngàn năm mới nở một lần. Bảo châu trên búi tóc Luân vương, không thể khinh suất trao cho người khác. Chỉ chúng sanh nào quyết chí hoàn thành địa vị Thiên Nhân Sư, tiếp nối hạt giống Bồ-đề, mới được nghe pháp này.
Cặp mắt toàn giác quan sát tâm chúng sanh, hiện tiền tánh thể chân thật không sanh diệt cũng chẳng phi sanh diệt, siêu vượt tất cả tình chấp thế gian. Mê tâm thể này thì mãi luân hồi sáu nẻo, hằng ở địa ngục, ngã quỷ, bàng sanh. Ngộ tâm thể này thì thành tựu Giới Định Tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, chứng A-la-hán cho tới Vô-thượng Phật địa.
Này Diệu Nguyệt! Bốn chữ “A Di Đà Phật” chính là Pháp-thân viên mãn, là Phật tánh thậm thâm, đầy đủ diệu dụng vô ngại. Ai quy y sẽ chuyển hóa vô minh thành giác ngộ, sanh tử thành Niết-bàn, đưa tất cả hữu lậu trói buộc trở về bản tánh vô lậu giải thoát.
Chúng sanh đem tâm duyên với danh hiệu Phật, dần dần phát sanh vô lượng vô biên công đức. Không để cho tâm duyên với vọng tưởng, lục trần huyễn cảnh, trí lực phân biệt. Người niệm Phật tự nhiên đi dần vào cảnh giới tịch lặng, sáng suốt an vui, cảm ứng với nguyện lực đức A Di Đà, thấy mình sanh về cõi An Lạc. Chúng sanh chí thành niệm danh hiệu Phật, oai lực bất khả tư nghì khiến tâm thể thanh tịnh, âm thầm ứng hợp với Bi Trí trang nghiêm của Phật nhưng chưa được Nhất thiết chủng trí. Đây mới thành tựu bước đầu tiên trên lộ trình Như Thật Đạo. Thí như đất sét đã nhào trộn, bỏ khuôn, đúc thành hình viên gạch. Nhưng muốn xây lầu bền vững với tháng năm sương gió, gạch còn cần phải bỏ lò nung kỹ. Người niệm Phật tuy công phu hiện kiếp đã có nền tảng giải thoát nhưng vẫn cần vãng sanh Tịnh-độ, lãnh thọ sự giáo hóa của Phật và Thánh chúng. Chứng Vô sanh pháp nhẫn rồi mới đủ khả năng vào đường sanh tử, đồng sự với ngũ trược ác thế chúng sanh. Tự lợi, lợi tha mới chắc chắn vô ngại. Bởi vậy nên ta, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, hôm nay trân trọng xác quyết rằng: Vãng sanh tức là thành Phật.
Muốn vãng sanh chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật. Niệm danh hiệu Phật tức là niệm Pháp-thân Phật.
Diệu Nguyệt trưởng giả lại thưa: Bạch đức Thế Tôn! Phải tu tập những tâm nào mới được vãng sanh?
- Này Diệu Nguyệt! Muốn niệm Phật đúng pháp để chắc chắn vãng sanh, cần phát khởi mười tâm thù thắng:
Lòng tin chân thật thiết tha bền vững là mẹ đẻ tất cả công đức vô lậu, là cửa ngõ về Phật pháp. Trưởng dưỡng tín căn là điều thiết yếu:
- Phải thấy hoạt dụng của lý nhân quả thông suốt ba đời, rõ ràng như những đường kẻ dọc ngang trên lòng bàn tay.
- Kiếp sống thế gian vô thường. Mạng người mong manh như hơi thở. Tất cả các pháp hữu vi đều huyễn hóa, không chủ tể, niệm niệm sanh diệt, sát na sát na biến hoại. Tất cả đều đưa tới khổ não vô minh và trói buộc.
- Sáu nẻo luân hồi thật nguy hiểm, đầy chướng nạn. Sơ sẩy chỉ trong ý niệm cũng đủ đưa chúng sanh trầm luân cả ngàn muôn ức kiếp. Mỗi lần sa lạc vào ba đường dữ thì không biết đến bao giờ mới được thoát ra.
- Phật pháp chính là đạo giải thoát an vui, đạo trí tuệ từ bi. Phật tri kiến có đủ phương thuốc nhiệm mầu, trừ diệt tất cả thân tâm bệnh.
- Tam-bảo là chỗ về nương của muôn loài, là ngọn đèn phá tan mọi hắc ám, là con thuyền đưa chúng sanh qua bờ kia.
- Tất cả các pháp đều duy tâm. Ba đời mười phương chư Phật, bốn Thánh sáu phàm đều từ Tâm lưu xuất.
- Cõi An Lạc tạo thành do chí nguyện và sự tu hành của đức A Di Đà. Cũng do ba nghiệp thân miệng ý rất thanh tịnh của hành giả đã cảm ứng mà tâm thức biến hiện để tự thọ dụng.
- Mỗi mỗi chúng sanh đều có đủ năng lực lãnh thọ giáo pháp Như Lai. Bất cứ hữu tình nào cũng có năng lực hoàn thành Nhất thiết chủng trí như chư Phật.
- Bản nguyện Phật A Di Đà chân thật tối thắng, không bỏ một chúng sanh nào, dù kẻ ấy đã phạm năm nghịch mười ác.
- Niệm Phật cầu vãng sanh là môn tu lợi ích cho hết thảy mọi người. Rời môn tu này, số đông chúng sanh không cửa giải thoát. Phế bỏ pháp môn này, chư Phật khó độ tận chúng sanh.
- Trong quá khứ vô lượng vô biên kiếp, chư Phật vì thương xót chúng sanh mà xả bỏ thân mạng, đầu mắt tay chân, quyến thuộc tài sản… để tìm cầu chánh pháp, tu Bồ-tát đạo, giáo hóa muôn loài. Đời đời kiếp kiếp chư Phật hằng theo dõi thương tưởng từng mỗi chúng sanh. Tìm cách nhổ bạt gốc rễ tham ái, đập tan gông cùm sanh tử, làm khô cạn biển khổ vô minh. Luôn luôn phát tâm quảng đại, tâm kim cang, tâm vô phân biệt, rọi sáng lối về cho mọi hữu tình. Người niệm Phật phải hằng sâu xa cẩn trọng tưởng niệm cảm mộ ân đức ấy.
- Chánh pháp là phương thuốc hữu hiệu, trị dứt bệnh tham ái. Là thuyền bè đưa chúng sanh qua bờ giác ngộ. Là tuệ kiếm chặt đứt mọi trói buộc phiền não. Là ngọn đuốc dẫn dắt ra khỏi đêm dài vô minh. Là đề-hồ chữa lành sanh già bệnh chết, ưu bi khổ não. Là đôi mắt khiến chúng sanh nhìn rõ Thật tướng. Người niệm Phật báo đáp ân đức ấy bằng cách đọc tụng kinh điển đại thừa và giảng nói; khuyên bảo mọi người quy y, bố thí, trì giới, thiền định; khiến chánh pháp được lưu hành rộng khắp nhân gian.
- Người trực tiếp khai sanh tánh mạng tuệ giác cho ta, chính là thiện tri thức. Gồm có Thánh phàm Tăng, Sư trưởng, các bạn đồng tu đồng học. Thiện tri thức là cửa ngõ, mở cho chúng sanh vào Như Thật Đạo. Thiện tri thức là cỗ xe đưa tới Như Lai địa. Là thuyền bè vận chuyển lên bờ giác. Là ngọn đèn tỏa ánh sáng Phật tri kiến. Là con đường đưa tới Niết-bàn. Là cây đuốc soi tỏ chỗ yên lành, nơi hiểm trở. Là chiếc cầu đưa chúng sanh ra khỏi biển khổ sông mê. Là chiếc lọng đại từ, che tỏa bóng râm mát mẻ. Là đôi mắt khiến chúng sanh nhận rõ pháp tánh.
- Ân đức cha mẹ chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, nhường khô nằm ướt, nhường ngọt ăn đắng, nuôi con khôn lớn, suốt đời tận tụy, đến chết chưa nguôi.
- Ân đức mười phương cung ứng ẩm thực, thuốc men, giường ghế, nhà cửa cho đến văn tự tri kiến, các thứ bảo hộ.
Người niệm Phật biết ơn đền ơn, hạt giống từ bi dần dần nảy nở, ngọn lửa trí tuệ từ từ bừng cháy. Môn tu niệm Phật mới dễ dàng thành công.
Không riêng vì bản thân cầu xuất ly Ta Bà khổ não. Khắp vì ba cõi sáu đường chúng sanh, cầu vãng sanh Cực Lạc, sớm thành Phật đạo. Muốn cầu quả đức siêu vượt tối thượng, phải phát tâm quảng đại dũng mãnh, xứng hợp với bản hoài chư Phật và bản nguyện vĩ đại của Phật A Di Đà.
Không trụ tướng mà niệm Phật, không dính mắc, không cố chấp, không tương ưng thế gian, không đối đãi, không chống trái, không cầu mong.
Người niệm Phật chỉ buộc tâm ý vào danh hiệu Phật, chăm chú lắng nghe mỗi câu rõ ràng, mỗi niệm phân minh. Quên thân quên cảnh.
Giữ gìn tâm trí không loạn động, bình tĩnh an hòa. Ta an trụ nơi Bồ-đề tâm, giúp người an trụ Bồ-đề tâm, cùng nhau an ổn. Nhẫn nhục nhu hòa, xa rời giận hờn tranh cãi. Ta buông bỏ pháp phàm phu điên đảo. Kiến hòa đồng giải, ta giúp người khác cùng tới địa vị Thánh Hiền. Ta siêng tu thiện căn vô lậu, thú hướng Niết-bàn, cần khiến mọi người chung quanh ta cùng hủy diệt màng lưới hữu lậu trói buộc. Có thế mới cùng nhau an ổn, vì cùng sống chung bầu không khí siêu vượt. Ta sanh tại nhà Phật, cũng phải dẫn dắt người khác thoát hầm hố dục lạc, trở về Bảo sở. Ta thâm nhập pháp chân thật, cần giúp người chê chán huyễn tướng lầm mê. Ta cảm ứng trí tạng vô tận của Như Lai, cũng khiến người thâm nhập pháp giới bình đẳng.
Người niệm Phật phải nắm giữ tất cả thiện pháp, trừ tiệt tất cả ác pháp, gọi là Đà-la-ni tâm.
- Tín tâm Đà-la-ni: Đặt trọn lòng tin thuần phác, thanh tịnh, nơi bản nguyện Phật A Di Đà cùng sự hộ niệm của mười phương Phật.
- Chánh kiến Đà-la-ni: Như thật quan sát các pháp đang diễn biến trong tâm và ngoài thân, sanh diệt từng sát na.
- Tam thế Đà-la-ni: Thông suốt nghĩa lý giáo pháp của ba đời chư Phật.
- Tam muội Đà-la-ni: Vì an trụ trong danh hiệu bất tư nghì nên nghe thấy điều phi pháp mà tâm chẳng loạn, sống trong cảnh ô trược mà không trôi lăn.
Được Đà-la-ni rồi thì đối với những hạnh này không bao giờ thoái lui.
An trụ nơi giới luật, hằng phát tâm hộ trì giới luật:
- Giới luật nghi, như Tỳ-kheo giới, Bồ-tát giới, ngũ giới tại gia v.v…
- Giới chẳng bỏ Bồ-đề tâm, chẳng quên Bồ-đề nguyện.
- Giới xa lìa phép học Thanh-văn. Không tham đắm Niết-bàn mà buông bỏ chúng sanh.
- Giới hân ngưỡng Đại thừa, vui thích tu hành theo tất cả pháp học Bồ-tát đạo.
- Giới đem hết thảy thiện căn hồi hướng quả vị Chánh đẳng giác, mong cầu Phật trí, Vô sư trí.
- Giới nơi tất cả Phật pháp vô sở đắc.
- Giới chẳng dính mắc tất cả thiện sự hữu vi.
- Thí: Xả bỏ tất cả sở hữu, trong thân ngoài thân không lẫn tiếc.
- Giới: Thanh tịnh các cõi Phật.
- Nhẫn: An trụ nơi lực dụng của bản nguyện.
- Tinh tấn: Tất cả chướng duyên chẳng thể làm thoái chuyển.
- Thiền định: Chuyên nhớ một cõi Phật, một danh hiệu Phật.
- Bát Nhã: Đúng như Thật tướng thấy các pháp.
IX- BÌNH ĐẲNG TÂM
- Tự tha bình đẳng: Tuệ nhãn nhận hiểu ta và người bình đẳng trước lực nhiếp thọ của chư Phật, Bồ-tát.
- Chủng loại bình đẳng: Thường quan sát mười phương thế giới các loại chúng sanh, sắc thân, tộc tánh, tướng mạo, thọ lượng, tri kiến mà không khởi tâm chán ghét hoặc ái thủ.
- Phật độ bình đẳng: Hằng quán tưởng các cõi Phật, Thường Tịch Quang, Thật Báo Trang Nghiêm v.v… đều không riêng khác. Tuy an lập Hoa Tạng thế giới mà chẳng rời tự tâm. Thật tế trụ địa không phương sở, không trụ xứ. Tùy theo tâm lượng và sở nguyện của chúng sanh mà các quốc độ hiển hiện như hoa đốm, như bóng nước, như huyễn mộng.
Tâm Phổ Hiền rộng lớn như hư không, luôn mong độ thoát hết thảy chúng sanh. Tâm vô biên như pháp tánh, luôn hân ngưỡng, thừa sự và cúng dường chư Phật. Tâm vô lượng, thọ trì tất cả Phật pháp chẳng quên. Tâm vô hạn, chẳng bỏ Bồ-đề hạnh. Tâm thí xả, sẵn sàng buông lìa tất cả sở hữu, vì biết pháp vô sở đắc. Tâm cầu Nhất thiết trí, học hỏi tất cả hạnh nguyện Bồ-tát. Tâm như đại hải, tất cả bạch tịnh pháp chảy vào. Tâm như núi Tu-di, nhẫn thọ tất cả ác ngôn. Tâm an ổn, hằng ban vô úy cho tất cả chúng sanh. Tâm đại hùng đại lực, niệm Phật không thoái. Tâm không cấu nhiễm, thường thanh tịnh cõi Phật để thành tựu Vô-thượng Bồ-đề. Tâm tinh tấn như tượng vương, sớm viên mãn hạnh nguyện Phổ Hiền.
Người niệm Phật siêng năng trưởng dưỡng Phổ Hiền tâm như vậy, thường được chư Phật hộ niệm, hiện đời luôn thấy Phật, thấy cõi Cực Lạc, chánh báo y báo trang nghiêm.
Lúc bấy giờ Phổ Hiền Bồ-tát nhập định. Tất cả đại chúng đều thấy thân mình ở trong thân Phổ Hiền tại cõi Cực Lạc. Thấy đức A Di Đà đang ngự trước mặt mình; thân tướng cao lớn không cùng, ngời chói sắc vàng Diêm-phù-đàn; lông trắng giữa chặng mày uyển chuyển, xoay về bên hữu như năm ngọn núi Tu-di; đôi mắt xanh biếc như bốn biển lớn; chân lông đều phóng hào quang, khắp chiếu mười phương, nhiếp thọ những chúng sanh niệm Phật.
Phổ Hiền Bồ-tát xuất định. Đại chúng trở lại như cũ. Vi Đề Hy hoàng thái hậu chắp tay bạch: “Thưa Đại sĩ! Tam muội này công năng oai lực không thể nghĩ bàn, tên gọi là gì?’’.
- Đây là do xưng niệm danh hiệu Phật với mười tâm thù thắng, cảm quả báo được Nhất Thiết Phật Độ Thể Tánh Tam Muội, thường gọi là Niệm Phật Tam Muội.
Mười tâm thù thắng vừa là nhân vừa là quả. Người niệm Phật có đủ mười tâm thù thắng, nhanh chóng được Niệm Phật Tam Muội, hiện bày cảnh giới Cực Lạc. Ngược lại, người đặt trọn tín tâm nơi bổn nguyện của Phật, chuyên tâm xưng niệm danh hiệu Phật, được Niệm Phật Tam Muội thì tự nhiên thành tựu mười tâm thù thắng.
Sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật” vốn đầy đủ vô lượng công đức, vô biên ý nghĩa, hằng sa lực dụng, cứu cánh giác tánh.
Vi Đề Hy hoàng thái hậu cung kính đảnh lễ Thế Tôn, chắp tay hướng về Phổ Hiền Bồ-tát: “Kính bạch Đại sĩ! Con thường nghe chư vị Trưởng lão dạy niệm Phật Pháp Tăng để được hiện tại an vui. Vậy cứu cánh của môn niệm Phật là gì?’’.
- Này Phật tử, đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật bắt đầu hóa độ chúng sanh cang cường, phải vì tiểu căn khai diễn tiểu pháp. Nay đã tới thời kỳ giảng nói đại pháp. Cũng chỉ một pháp niệm Phật, với kẻ hạ liệt chí nhỏ, Như Lai dạy hiện tại an vui. Bồ-tát sơ phát tâm dùng niệm Phật để thâm nhập Như Lai tạng tâm, không dính mắc vào hiện tại.
Nếu Bồ-tát sơ phát tâm dính mắc vào hiện tại khắc chế, hiện tại tương ưng, hiện tại biện giải, thì bị rơi vào ảo tưởng của sắc uẩn.
Nếu Bồ-tát sơ phát tâm dính mắc vào hiện tại phan duyên, hiện tại ly trần, hiện tại vô ký, tức là đang bị nhiễu loạn bởi ảo tưởng của thọ uẩn.
Nếu Bồ-tát sơ phát tâm dính mắc vào hiện tại tánh chỉ, hiện tại luân chuyển, hiện tại nương gá, tức là đang bị chi phối bởi ảo tưởng của tưởng uẩn.
Nếu Bồ-tát sơ phát tâm dính mắc vào hiện tại sanh khởi, hiện tại tương tục, hiện tại đoạn diệt hay hiện tại bất động, tức là đang bị trôi lăn theo ảo tưởng của hành uẩn.
Nếu Bồ-tát sơ phát tâm dính mắc vào hiện tại phỉ lạc, hiện tại vong ưu, hiện tại mông muội, tức là đang bị triền chuyển bởi ảo tưởng của thức uẩn.
Bồ-tát sơ phát tâm muốn xoay vọng tưởng hư dối sanh diệt kia trở lại chân tâm thanh tịnh thường trụ, muốn chặt đứt gốc rễ phiền não, muốn trừ sạch sáu giặc khách trần, phải nhất tâm niệm Phật.
Cõi Diêm-phù-đề vốn vẫn lấy âm thanh làm giáo thể. Nhiều chúng sanh nương âm thanh nhận được tánh nghe viên thông. Danh hiệu Phật là âm thanh tối thắng, khiến chúng sanh nhận được Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh hằng tịch lặng chu biến mười phương. Tùy theo tín tâm, công năng tu tập mà phát huy diệu dụng.
Này Phật tử! Danh hiệu Phật chính là:
- Bồ-đề tâm, chúa tể các thiện pháp, sanh ra tất cả Phật pháp.
- Bồ-đề nguyện, cửa ngõ xu hướng Vô-thượng Giác.
- Mặt trời phá trừ si ám, ban phát ánh sáng thiện căn.
- Như cá kình bơi lội tự tại trong đại dương khổ não, chẳng bị sóng phiền não vùi chôn cuốn lấp.
- Hạt giống chắc thật, lưu xuất phước đức vô lậu.
- Mưa lớn, khiến hạt giống Bồ-đề nẩy nở.
- Ruộng tốt, trưởng dưỡng bạch tịnh pháp.
- Nước cam lồ, tẩy rửa sạch vọng tưởng phiền não, khiến đài gương tâm trí được sáng tỏ.
- Ngọn lửa mạnh, đốt tiêu rừng rậm kiến chấp.
- Gió lớn, cuốn phăng tất cả bụi mù tà kiến, thiên kiến.
- Xe Đại thừa, chuyển vận các Bồ-tát sơ phát tâm nhanh chóng tới Phật địa.
- Chính là ba đời mười phương chư Phật, vì A Di Đà là pháp giới tạng thân.
Này Phật tử! Người có thuốc A-già-đà thì lửa lớn không thể đốt cháy, độc dược chẳng thương tổn tánh mạng, gươm dao sắc bén chẳng thể chém chặt, nước lũ không thể nhận chìm, khói cay không thể làm cho ngộp thở. Bồ-tát niệm Phật là có thuốc Nhất thiết trí nên lửa tham không thể đốt cháy, độc sân hận chẳng thể thương tổn. Gươm dao kiến chấp chẳng thể chặt đứt tuệ mạng. Nước lũ hữu lậu không thể nhận chìm thuyền Bát Nhã. Đám khói tà kiến không thể ngộp tắt hơi thở giác ngộ.
Người cầm bảo kiếm vô năng thắng, tất cả oán địch đều tránh xa. Bồ-tát niệm Phật đẩy lùi oán địch vô minh, hàng phục vọng tưởng.
Người cầm viên thuốc Ma-ha-ưng-già, tất cả rắn độc, rết độc, trùng độc nghe mùi liền tránh xa. Bồ-tát niệm Phật thì tất cả rắn độc mười ác, rết độc mười sử, trùng độc phiền não liền tiêu hoại.
Vỏ cây San-đà-na thoa vào mụn ghẻ liền hết đau nhức, vết lở liền khỏi. Vỏ cây này vừa bị bóc ra liền mọc vỏ khác, lấy mãi không bao giờ hết. Bồ-tát niệm Phật tức là đã trồng được cây Nhất thiết trí, bao nhiêu phiền não, nghiệp chướng, báo chướng đều bị trừ diệt. Nhất thiết trí không mảy may tổn hại mà lại còn tăng trưởng.
Ném một nhúm rễ cây hương phụ vào khoảng đồng trống, chẳng bao lâu cây sẽ mọc lan tràn khắp cánh đồng. Bồ-tát niệm Phật gieo trồng thiện căn. Chẳng bao lâu Phật tri kiến sẽ lan tràn, choáng hết đất của cánh đồng vô minh.
Uống thuốc kiên cường trí nhớ, những gì đã nghe đã thấy đều chẳng quên. Bồ-tát chuyên niệm Phật, thọ trì tất cả Phật pháp đều không quên.
Ngọc châu lưu ly muôn ngàn năm lăn lóc nơi uế bẩn cũng chẳng nhiễm ô, vì bản chất của lưu ly vốn trong sạch. Bồ-tát niệm Phật dù ở cõi dục ác, uế trược vẫn không bị loạn nhiễm. Bởi vì pháp giới tánh vốn thanh tịnh, hư không tánh vốn vô cấu.
Cây Ba-lợi Chất-đa-la dù chưa có nụ, ai cũng biết nó sẽ sản xuất vô số mỹ diệu. Bồ-tát niệm Phật dù chưa có Nhất thiết chủng trí, ai cũng biết chắc chắn vô số diệu hoa Bồ-đề sẽ khai nở trong chúng nhân thiên.
Ngọc ma-ni giá trị hơn cả tam thiên đại thiên thế giới. Dù bị nứt bể vẫn quý hơn những châu báu khác. Bồ-tát niệm Phật dù nết hạnh trí đức còn kém khuyết vẫn vượt hàng Nhị thừa.
Chày Kim cương chỉ đại lực sĩ Na-la-diên mới sử dụng nổi. Bồ-tát đã từng gieo trồng hạt giống Bát Nhã, mới đủ thiện căn phước đức để thọ trì và hưởng dụng giác quả vô lậu của pháp môn niệm Phật.
Thí dụ chư Phật ngồi tòa Kim cương, hàng phục quân ma, thành đạo Vô-thượng. Nghĩa là phải trở về chân tâm vô sanh bất diệt mới có lực dụng này. Cũng thế, Bồ-tát phải niệm niệm không quên tánh Vô lượng thọ quang, mới có thể trụ vững tất cả hạnh nguyện.
Phổ Hiền Bồ-tát nói xong. Tất cả đại chúng đều được vô lậu công đức Đà-la-ni. Trưởng giả Diệu Nguyệt cùng các Bồ-tát sơ phát tâm đều chứng Niệm Phật Tam Muội.
Tất cả Bồ-tát trong pháp hội đều được hồng danh công đức tạng.
Trời mưa hoa mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa cúng dường Như Lai và chúng hội đạo tràng.
XƯNG TÁN DANH HIỆU PHẬT
Vi Đề Hy hoàng thái hậu hớn hở vui mừng chắp tay thưa thỉnh: “Kính bạch đấng Thiên Nhân Sư tối tôn tối thắng! Kính bạch Đại sĩ đại từ đại bi! Con thường nghe chư vị Trưởng lão dạy: Chỉ có Tứ Niệm Xứ là con đường độc nhất giúp chúng sanh diệt trừ ưu bi khổ não. Nay lại được đức Thế Tôn mở bày pháp niệm Phật. Vậy đâu là pháp tối hậu mà Như Lai thương xót ban cho chúng sanh thời mạt pháp?”.
Đức Phật mỉm cười. Phổ Hiền Bồ-tát nhập định. Quán Thế Âm Bồ-tát cung kính nhiễu Phật ba vòng, hướng về Vi Đề Hy nói:
Nay tôi nương oai thần đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, tùy thuận bản nguyện lực A Di Đà, tuyên dương năng lực danh hiệu Phật, ngươi hãy nhận rõ đừng nghi lầm.
Tứ Niệm Xứ là pháp diệt khổ. Niệm Phật là pháp thành Phật, nghĩa là khai thị Phật tri kiến cho tất cả chúng sanh ngộ nhập.
Đức Thế Tôn vì những người sợ hãi hiểm nạn sanh tử nói pháp Tứ Niệm Xứ. Chánh niệm tinh tấn nhiếp phục tham sân si sẽ thoát khổ và chứng A-la-hán, được Niết-bàn.
Nay vì những người hân ngưỡng khát khao quả vị Bồ-đề, mong cầu Phật đạo, hạnh nguyện đại bi nên đức Thế Tôn chỉ dạy pháp môn niệm Phật.
Nhờ nhất tâm chuyên niệm Phật, hành giả dần dần chuyển thức thành trí. Ngã chấp tự nhiên rơi rụng. Ngã kiến tự nhiên tan mất. Như bong bóng nước dưới ánh nắng mặt trời. Niệm Phật, hành giả không để thức theo duyên dấy động nên chẳng có pháp Y tha khởi. Vì ngã và ngã sở không tham dự nên Biến kế sở chấp cũng chẳng tồn tại. Danh hiệu Phật liên miên trôi chảy thành một dòng tâm, mỗi sát na đều hiển hiện Vô thượng diệu viên thức tâm tam muội. Tiếp tục niệm Phật như thế, chẳng bao lâu, ngoài không huyễn tướng, trong không tâm thức. Cuối cùng Đại viên kính trí phơi bày. Danh hiệu Phật đưa hành giả vào tánh Viên thành thật chứng Vô sanh pháp nhẫn.
Này Vi Đề Hy! Chúng sanh từ vô thủy lẫn lộn chánh tà, thấy cong nhìn ngược, không phân thiện ác. Nhận bốn đại giả hợp làm thân, chấp tư tưởng điên đảo làm tâm, tạo vòng luân hồi luẩn quẩn. Cứ tự vui ở đường sanh tử huyễn mộng. Nay niệm danh hiệu Phật, hành giả dần dần thành tựu chánh định, vô minh trở thành Tuệ giác. Tiếp tục xưng niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, hướng CÁI BIẾT trở vào Viên giác tánh. Danh hiệu Phật triền miên bất tận thành một khối lưu ly sáng rực, hòa tan căn trần thức, nhập vào tánh bình đẳng bất động, thường trụ như hư không, tròn đầy chiếu suốt mười phương.
Sử dụng danh hiệu Phật để thâm nhập Như Lai Tạng, chúng sanh mạt thế phải siêng năng thọ trì pháp môn này để vào cảnh giới Thánh trí tự chứng. Lúc bấy giờ sẽ có khả năng bấm ngón chân xuống đất, dùng ấn Địa-xúc cải biến Ta-bà thành Tịnh-độ trang nghiêm. Niệm niệm du hành giáo hóa chúng sanh khắp mười phương thế giới.
Quá khứ Như Lai đã dùng hằng hà sa phương tiện đưa chúng sanh vào Nhất thừa đạo. Chỉ có niệm Phật là viên đốn đệ nhất. Vị lai chư Phật cũng sẽ dùng hằng hà sa phương tiện đưa chúng sanh vào Nhất thừa đạo. Chỉ có niệm Phật là cứu cánh đệ nhất. Hiện tại mười phương Phật đang dùng hằng sa phương tiện đưa chúng sanh vào diệu tâm Như Lai Tạng. Chỉ có niệm Phật là hữu hiệu đệ nhất.
Vi Đề Hy lắng nghe! Bất cứ chúng sanh nào, hễ nhất tâm niệm Phật thì sẽ có những bất tư nghì như là:
- Thấy rõ tánh chất huyễn hóa của các pháp hữu vi nên phân biệt tất cả mà vẫn tự tại vô ngại. Từ bi khoan dung, không chê bai khinh ghét những người phi pháp.
- Thấu triệt tất cả các pháp đều là Phật pháp. Tùy thuận tất cả căn lành dẫn dắt tới Vô-thượng Giác. Vì luôn thâm tín tất cả Phật pháp nên tôn trọng và thừa sự thiện tri thức.
- Không bao giờ thoái Bồ-đề tâm nguyện.
- Đưa hết thảy chúng sanh vào biển đại nguyện của Phật A Di Đà.
- Cải biến Ta-bà thành Tịnh-độ.
- Tự tại hạnh, an ổn giữa tất cả chướng duyên Ta Bà để thành tựu thệ nguyện.
- Tam muội hạnh, nhất tâm bất loạn, an trụ trong lực dụng của danh hiệu.
- Sám hối hạnh, thường đem ba nghiệp trong sạch đối trước chư Phật Bồ-tát, ăn năn những lỗi lầm quá khứ, thề không tái phạm.
- Như Lai hạnh, thành tựu những ước mong đúng pháp của chúng sanh.
- Tổng trì tất cả phước đức thiện căn đã tích tập từ nhiều kiếp, nay phát sanh trí tuệ giải thoát.
- Tổng trì tất cả pháp quyết định chân thật, đoạn sạch nghi ngờ lầm lẫn.
- Tổng trì tất cả nghĩa lý bí mật của Như Lai thừa.
- Tâm bình đẳng đối với sắc thân, tướng mạo, nghiệp báo, thú hướng, tri kiến đúng sai, lành dữ tốt xấu của hết thảy các loài chúng sanh.
- Tâm bình đẳng đối với chánh pháp và phi pháp.
- Tâm bình đẳng đối với cảnh giới tịnh và uế.
- Tâm bình đẳng đối với các hạnh tu sai biệt.
V- VÔ ÚY
- Xô dẹp tất cả tà kiến ngoại đạo, hàng phục thiên kiến Nhị thừa, đưa chúng sanh vào Đại thừa.
- An nhẫn những chướng ngại, hộ trì chánh pháp không tiếc thân mạng, hàng phục ác tri thức, đưa tất cả chúng sanh vào chánh kiến.
- Kiên cố Bồ-đề tâm nguyện, cứu độ chúng sanh không chán mỏi.
- Không khinh hủy những người phạm giới, không dua nịnh những bậc giới thể hoàn bị.
VI- TÂM BẤT ĐỘNG
- Sẵn sàng xả bỏ tất cả sở hữu.
- Đối với tất cả chúng sanh không lòng não hại.
- Nhiếp hóa chúng sanh không phân biệt oán thân.
- Không thoái Bồ-đề tâm nguyện, dù gặp nhiều thất bại hủy nhục.
- Quan sát diệu nghĩa của tánh Không.
- Không chán ghét xả ly những chúng sanh say sưa mê muội trong ngũ trược ác thế.
- Ghi nhớ không quên những pháp Đại thừa khó tin khó hiểu.
- Dẫu sống trong thế pháp nhiễm ô mà vẫn tu phạm hạnh.
- An nhiên nơi sở đắc và vô sở đắc.
- Bồ-tát không giận hờn ghét bỏ những trí nhỏ, khinh chê Đại thừa.
- Thấy rõ các pháp đều do nhân duyên sanh khởi, chẳng thật, huyễn mộng. Không sợ hãi những đối nghịch mâu thuẫn, cũng không tham luyến vướng mắc vào bốn tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả.
- Trực nhận sâu xa bản tánh tịch tịnh thường trụ.
- Tuy khẩn thiết cầu sanh Cực Lạc mà vẫn nguyện trở về những quốc độ ngũ trược để cứu vớt chúng sanh.
- Cầu Nhất thiết trí để biết thật tướng các pháp và khéo sử dụng phương tiện để dìu dắt chúng sanh.
- Hiểu biết tâm ý và sở hành chúng sanh, nhẫn nại khiến chúng sanh phát tâm Bồ-đề. Tin nhận vô biên diệu dụng của hồng danh Phật, dùng đây đưa chúng sanh lên ngôi Bất thoái.
- Đời đời thọ sanh trong dòng giống Như Lai, vĩnh viễn an trụ trong cảnh giới Vô Lượng Quang.
- Thấu triệt tâm nguyện và công hạnh của chư Bồ-tát, an trụ trong vô số Ba-la-mật, tham dự các chúng hội đạo tràng của Phật.
- Thâm nhập Bồ-đề giác tánh.
- An trụ trong bản nguyện vĩ đại của Phật A Di Đà, chắc chắn được Phật tiếp dẫn vãng sanh.
- Thanh tịnh giới: Thân miệng ý tu mười thiện.
- Bồ-đề tâm giới: Đặt trọn chí hướng nơi Phật tri kiến.
- Ba-la-mật giới: Dẫn dắt chúng sanh vào Như Lai thừa.
- Thâm mật giới: Cứu vớt chúng sanh hủy phạm giới luật, ngăn làm ác, giúp làm lành.
Này Vi Đề Hy! Giả sử đem hằng sa quốc độ nghiền thành vi trần. Mỗi vi trần tính là một đại kiếp. Dùng thời gian ấy diễn nói năng lực bất tư nghì của danh hiệu Phật A Di Đà cũng không thể nào nói hết được.
hRg
Quán Thế Âm Bồ-tát vừa dứt lời, mười phương chư Phật đồng hiện ra khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Ai nhất tâm xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, sẽ được chư Phật hộ trì và nhiếp thọ, quyết định thành Phật”.
Phẩm thứ bảy
CHÂN NGÔN
Phổ Hiền đại Bồ-tát bạch Phật rằng: “Vì thương tưởng chúng sanh thời mạt pháp thọ mạng ngắn ngủi, phước đức kém thiếu, loạn trược tăng nhiều. Con xin nói Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc Sanh Tịnh Độ Đà La Ni:
Nam mô a di đa bà dạ, đa tha già đa dạ. Đa địa dạ tha. A di rị đô bà tỳ. A di rị đa tất đam bà tỳ. A di rị đa tỳ ca lan đế. A di rị đa tỳ ca lan đa. Già di nị, già già na. Chỉ đa ca lệ, sa bà ha.
Người niệm Phật phải giữ giới, ăn chay, ba nghiệp thân miệng ý thanh khiết. Ngày đêm sáu thời, mỗi thời tụng hai mươi mốt biến. Như vậy diệt được các tội: tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác và hủy báng chánh pháp. Thường được đức A Di Đà ngự trên đỉnh đầu. Hiện đời an ổn phước lạc. Mai sau tùy nguyện vãng sanh. Tụng ba trăm ngàn biến sẽ thấy Phật ngay trước mặt mình”.
Trưởng giả Diệu Nguyệt vui mừng vô hạn, nhiễu quanh đức Thích Ca ba vòng, chắp tay quỳ gối, thành khẩn thưa hỏi: “Bạch đức Thế Tôn toàn giác toàn tri! Kinh này tên gọi là gì? Chúng con thọ trì thế nào?”.
- Kinh này gọi là Niệm Phật Ba La Mật. Cũng gọi là Xưng Tán Hồng Danh Công Đức. Cũng có tên là Niệm Phật Bát Nhã Tam Muội. Các ngươi y theo đó mà thọ trì.
Này Diệu Nguyệt! Thời mạt pháp kinh điển Đại thừa tận diệt. Chỉ kinh này tồn tại thêm mười ngàn năm ở Nam Diêm-phù-đề. Hai đại Bồ-tát Quán Thế Âm và Phổ Hiền đồng phát nguyện thủ hộ Kinh và che chở những người niệm Phật.
Này đại chúng! Mạt pháp sau này, ai thọ trì đọc tụng suy ngẫm biên chép Kinh Niệm Phật Ba La Mật, phải biết người ấy đã vô lượng vô biên kiếp cúng dường tôn trọng chư Phật. Người này từ Bát Nhã trí sanh ra, đời đời thực hành giáo pháp Như Lai vô tận tạng.
Này đại chúng! Thời mạt pháp, ai tin nhận ghi nhớ nghĩa thú Kinh Niệm Phật Ba La Mật, một lòng niệm danh hiệu Phật, chắc chắn được Phật thọ ký. Người này hiển phát năng lực của tánh Không, tỏ ngộ tri kiến Như Lai và bước thẳng vào cảnh giới Thánh trí tự chứng.
Này đại chúng! Thấy ai thọ trì Kinh này và thường chăm niệm Phật, các ngươi phải khởi lòng tôn trọng như cung kính Như Lai. Chớ mống tâm chướng ngại. Chẳng được phơi bày lỗi lầm sai trái của những người niệm Phật.
Này đại chúng! Nên biết vô lượng vô biên hóa thân Thích Ca Mâu Ni Phật ở khắp mười phương đều giảng nói Kinh này, đều khuyến phát chúng sanh siêng năng niệm Phật, hằng phóng quang minh thủ hộ người niệm Phật.
Phật nói xong, mười phương đại Bồ-tát, các Trưởng lão Thanh-văn, Trời, Rồng, Dạ-xoa, nhân phi nhân…, tất cả đại chúng đều hoan hỷ thọ trì, đảnh lễ mà đi.
Lời Phụ
“Tâm này là Phật.
Tâm này làm Phật”.
Đây là lời kinh Quán Vô Lượng Thọ, dạy niệm Phật A Di Đà. Niệm Phật, Phật từ tư tưởng sanh nên nói “Tâm này là Phật”. Cũng như niệm ác, ác từ tư tưởng sanh nên gọi là tâm ác. Nếu không niệm Phật mà bảo tâm là Phật thì không đúng. Cũng như không niệm ác mà bảo tâm là ác thì sai.
Niệm Phật là tưởng thiện, niệm ác là tưởng ác. Nước đội thuyền đi mà lật chìm thuyền cũng do nước. Tuy cùng là tưởng mà thiện ác khác nhau như trời và vực. Tư tưởng vọng là chúng sanh. Tư tưởng chân là Phật.
HỎI: Đức chí chân vô tư. Nay dùng tưởng mà cầu há chẳng lầm ư?
ĐÁP: Không lầm. Vì chấp Không tưởng, quả báo sanh về cõi trời Vô Tưởng, là một trong tám đại nạn. Cố chấp vô tưởng, gièm chê việc tưởng Phật, thành tội báng Pháp.
HỎI: Kinh Ban Châu Tam Muội nói: “Tâm khởi tư tưởng tức là si mê. Vô tưởng là Niết-bàn”. Nay nói phải dùng tư tưởng, chẳng phải trái với kinh sao?
ĐÁP: Chẳng trái. Muốn dẫn kinh phải biết chỗ quy thú của kinh. Ban Châu là tiếng Phạn. Tiếng Trung Hoa dịch là Hiện Tiền. Nghĩa là nhớ nghĩ Phật liên tục không ngừng thì ở trong định sẽ thấy Phật hiển hiện. Lời kinh dạy: Muốn tinh chuyên niệm Phật, phải dẹp vọng tưởng.
Kinh Phương Đẳng dạy: “Vừa tưởng tướng bạch hào, vừa lên tiếng xưng danh hiệu Phật thì dễ được định tuệ quân bình”. Còn niệm thầm, tâm chuyên chú lắng nghe, khiến trần lụy tiêu tan. Việc này không phải là ai cũng dễ dàng thành công.
Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Thà chịu vô lượng khổ mà được nghe tiếng niệm Phật”. Vậy nếu có sức khỏe, lâu lâu cũng nên niệm Phật ra tiếng:
- Niệm rõ ràng tâm dễ chuyên nhất.
- Tai họa tiêu tan, công đức sung thịnh.
- Tự mình phấn chấn, khiến người phát sanh thiện tâm. Như sấm mùa Xuân, kích động cây cỏ sanh chồi nảy lộc.
Bất luận nghiệp thiện hay ác, yếu tố phát sanh gọi là động lực.
- Vì tất cả chúng sanh hướng đến sự giác ngộ Vô-thượng là động lực quý nhất.
- Vì xả ly là động lực thứ nhì.
- Cầu tái sanh tốt là động lực tối thiểu.
- Vì danh lợi là động lực tồi tệ.
Nghiệp là tạo hóa, chủ chốt nhân sinh, cho nên ngay giờ phút này ta phải tìm phương thế. Nương tựa ngôi Tam-bảo là phương thế hữu hiệu duy nhất. Nhưng phải nhớ rằng nếu Phật và Tăng có thể xóa sạch hết tội báo cho ta thì các Ngài đã làm từ lâu. Chúng ta quay về ba ngôi báu, một lòng quy y với chí nguyện thay đổi hành xứ cho phù hợp với giáo lý.
Quy y Tam-bảo để sám hối là phát khởi một động lực giải thoát hạng thấp, vì đây là dụng ý để thoát đọa xứ. Như thế nhiều lắm chỉ leo lên các cõi Trời, được vài ba kiếp rồi nghiệp ác lại bắt kịp, kéo về khổ xứ.
Chúng ta đã từng bao lần làm Phạm Vương Đế Thích để rồi lại quằn quại trên giường sắt nóng, uống nước đồng sôi. Chúng ta đã từng được hưởng lạc thú với các Tiên ông Tiên bà để rồi lại bị ngưu đầu ngục tốt vây quanh. Phước lạc thế gian chẳng thể tin cậy dài lâu. Chưa hết sanh tử chưa hết khổ. Nếu đem tất cả những cái đầu của ta đã bị chặt từ vô thủy, chất đống lại, sẽ có một ngọn núi cao hơn cõi Phạm Thiên. Nếu ngay kiếp này, ta không đủ khả năng ngừng quay vòng luân hồi thì sẽ còn cả núi đầu nữa phải chặt. Nước đồng sôi ta đã uống trong địa ngục quá khứ, nếu gom lại sẽ nhiều hơn bốn biển. Nếu kiếp này chẳng giải quyết xong vấn đề sanh tử thì sẽ còn biển nước đồng sôi nữa phải uống. Ngay cả cảnh giới thiện như loài người cũng còn 8 khổ, cõi Trời cũng còn 5 tướng suy. Để rồi lại rơi xuống hố vực tam đồ.
Nay đã được thân người, được gặp giáo pháp Như Lai, không nỗ lực tự cứu, còn đợi khi nào? Thân người rất khó được mà dễ mất. Đời người như làn chớp nhoáng trong bầu trời. Mọi hoạt động thế gian như trấu bay trước gió. Cần nỗ lực rút lấy tinh hoa của kiếp sống. Đừng để lỡ cơ may làm người. Ta lãng phí đến nỗi mất tiền ta biết tiếc mà mất thời giờ lại bỏ qua, coi thường. Đâu biết thân người giá trị hơn vàng, vì vàng làm sao giúp ta thoát khổ đọa lạc? Với thân người, biết chăm niệm Phật, có thể vãng sanh về cõi Phật.
Điều quan trọng là phải biết nắm lấy cơ hội. Để lỡ thì không một mất mát nào đáng tiếc hơn. Mê muội việc này thì không một sự mù quáng nào đáng thương hơn. Buông bỏ việc này thì không một lầm lạc nào nguy hiểm hơn. Bởi vì không những chắc chắn ta phải chết mà ta còn khổ hơn những tử tù, vì không biết trước ngày giờ để chuẩn bị.
Có thể ngày này sang năm, ta đã là con thú mang lông đội sừng. Hoặc con quỷ cả ngàn năm không kiếm được giọt nước. Hoặc vào địa ngục chịu luộc trong vạc dầu hay thiêu trong lò lửa.
Dòng tâm thức chúng ta lẫn lộn tốt xấu. Lâm chung, thứ nào mạnh lôi đi trước. Chúng ta tự thấy lỗi của mình không đáng kể. Kỳ thực nó vẫn đủ sức để lôi ta đi xuống. Thí dụ: Một Sư ông la rầy đệ tử. Bị thúc đẩy bởi cơn hằn học (động lực), việc làm (chính nghiệp) hẳn là sử dụng những từ ngữ gay gắt để kẻ kia phải đau. La xong, ông Thầy cao ngạo tự cho mình là có lý. Thế là ở cả ba giai đoạn, bản ngã đều cường thịnh.
Ta cứ tự cho đức độ của mình lớn lắm. Niệm Phật 10 xâu chuỗi ta thường làm lấy lệ (động lực). Chẳng thể nhất tâm từ đầu đến cuối (chính nghiệp). Niệm xong coi như hết nợ, bỏ qua, vội lo việc khác. Thế là cả ba thời công đức đều yếu ớt.
Nếu ta tu tập Giới Định Tuệ, niệm Phật cầu thoát sanh tử. Đó là động lực trình độ trung bình.
Trong vô số kiếp tái sanh, tất cả hữu tình đều đã từng là cha mẹ lẫn nhau. Làm sao giúp nhau thoát khổ? Chúng ta nay được thân người lại thuận duyên tu học Phật pháp. Nhân cơ hội có một không hai này ta nên phát nguyện vì tất cả chúng sanh cầu Vô-thượng Bồ-đề. Như thế là phát khởi động lực trình độ rộng lớn, tự nhận trách nhiệm bảo trì giáo pháp Như Lai.Mua vài thước vải ta chọn lọc cẩn thận, tại sao phát tâm giải thoát, ta lại không chọn lọc nghiêm chỉnh con đường cần phải đi? Dĩ nhiên tất cả kinh điển đều từ kim ngôn đức Toàn Giác nhưng cốt lõi là Bát Nhã Ba-la-mật. Động lực là Vô-thượng Bồ-đề, chính nghiệp là Bát Nhã Vô Lượng Quang. Cứ thế một lòng cầu vãng sanh, tiếp nối tu hành cho tới khi thành Phật. Với nghiệp thù thắng trọn vẹn cả ba thời như thế thì sự tái sanh hẳn được chánh báo y báo trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn.