CHUADUOCSU.ORG
XUÂN TRONG CỬA THIỀN
Thuyết giảng: HT. THÍCH THANH TỪ
Soạn lời: Tỳ-Kheo-Ni HẢI TRIỀU ÂM
BÀI THUYẾT PHÁP ĐẦU TIÊN CỦA ĐỨC PHẬT
(Tất Niên Ất Sửu 1985)
Đầu năm xin trình bày con đường tu hành đức Phật đã vạch sẵn cho chúng ta, để quý vị nắm vững đầu mối.
Suốt 49 năm thuyết pháp, đức Phật chỉ nói về một vấn đề: Con người. Ba tạng Kinh Luật Luận mông mênh cũng chỉ có một chủ yếu: Giải khổ cho hàm thức. Tứ Đế là bài pháp đầu tiên đức Phật nói cho năm anh em ông Kiều Trần Như:
1. Khổ Đế.
Ai ai cũng thường kêu khổ nhưng rất ít người biết rằng thân là gốc khổ. Hãy quan sát trên sự thật cái thân chúng ta quý trọng thương yêu gìn giữ này là cái gì? Con người là chánh báo, ngoại cảnh là y báo. Chánh báo tốt xấu thì y báo cũng theo thành tốt xấu. Cho nên cần nghiên cứu chánh báo.
Đế là trí tuệ quyết định, thấy rõ một cách chắc chắn.
Khổ Đế là trí tuệ thấy rõ sự khổ trong ba cõi. Thân là gốc khổ, vì không một ai tránh khỏi bốn tai nạn sanh già bệnh chết. Sanh là cái khổ sanh sống, từ lúc ở trong thai, lọt lòng mẹ cho đến lúc chết. Thân đòi ăn, đòi mặc, nhà cửa, quần áo, thuốc men v.v… không biết bao nhiêu thứ mà rốt cuộc nó vẫn già vẫn chết. Còn những khổ ân ái biệt ly, oán thù gặp gỡ, cầu chi chẳng được, năm ấm lẫy lừng, chúng ta phải gan dạ nhìn thẳng vào sự thật, biết khổ để tu hành thoát khổ.
2. Tập Đế.
Trí tuệ quyết chắc nguồn nhân đau khổ là ba độc tham sân si, hay nói cho đủ là sáu căn bản phiền não: tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến.
3. Diệt Đế.
Trí tuệ quyết chắc diệt hết Tập sẽ chứng Niết-bàn, là cảnh giới an vui vĩnh viễn.
4. Đạo Đế.
Trí tuệ quyết chắc biết sử dụng 37 phẩm trợ đạo, căn bản là Tám chánh đạo mà đứng đầu là chánh kiến để diệt Tập chứng Niết-bàn.
Con đường đức Phật vạch ra là nghiên cứu cho kỹ nhân quả thế gian là Tập và Khổ. Rồi tu Đạo để chứng Diệt (nhân quả xuất thế gian).
Con mắt Đại thừa nhìn sâu và rộng hơn. Trong năm ấm vô thường vô ngã khổ và không, có tánh Phật thường lạc ngã tịnh. Giác ngộ được Pháp-thân thường trụ ở khắp mười phương. Đứng từ Pháp-thân nhìn lại thân vô thường sanh diệt nào khác chi đám mây nổi, ba độc tham sân si là vọng tưởng không gốc. Như vậy nhân quả thế gian đều tạm bợ hư giả. Bồ-tát không sợ ba độc cũng không quý tiếc thân này. Chủ yếu tu hành của Bồ-tát là giác ngộ (minh tâm kiến tánh). Nhận được chân thật rồi, chúng ta từ từ xả bỏ những sai lầm.
Ngài Cảnh Thanh nghe ngoài am có tiếng kêu. Hỏi thì thị giả đáp: “Nhái kêu vì bị rắn bắt”. Ngài nói: “Chúng sanh khổ mà lại còn cái khổ làm chúng sanh”. Nhái bị rắn bắt là cái khổ hiện tại của chúng sanh. Ai quên mình theo vật thì phải khổ vì người ấy là chúng sanh. Làm chúng sanh là chấp nhận tất cả khổ. Nghe như vậy nên suy ngẫm kỹ để biết sợ mà lo trở về chân tâm bản tánh. Ai cũng có sẵn ngay tâm mình một “Quán Âm diệu trí lực, năng cứu thế gian khổ”.
Một tánh viên minh ai nấy đồng
Bao la trời đất cả hư không
Đạt Ma Sư Tổ từ Tây lạiChánh Tông chính là Tâm tịch linh tri.
PHẬT PHÁP THẬT TẾ
(Xuân Bính Dần 1986)
Tăng Chi Bộ Kinh (A Hàm): Sivaka một ngoại đạo đến hỏi Phật: “Phật pháp là thiết thật, làm sao chứng minh?”.
- Nội tâm có tham, ông có biết được không? Thưa có. Nội tâm không tham, ông có biết được không? Thưa có. Này Sivaka, Pháp là thiết thật hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy…
Có tham là có khổ, dứt tham của nội tâm là hết khổ. Như vậy Phật pháp dạy rất thiết thật. Không có thời gian, bởi có tham biết có, không tham biết không, đâu có phải đợi hai giờ, ba giờ mới biết. Mà biết liền hết. Sự thật này tự mình tu tập tự mình thấy, không phải do lòng tin. Đến để tự mình thấy thì đâu có đặt lòng tin lên trên. Vì ngu si nên tham. Bởi tham nên sân. Vì tham sân si nên khổ. Nay tu để cầu hết khổ. Tu tỉnh cho hết si rồi tu sửa cho hết tham sân. Hết tham sân si là hết khổ. Đây là một lẽ thật rõ ràng còn nghi ngờ gì nữa. Chính chúng ta nhận biết ngay nơi nội tâm mình, không người ngoài nào chen vào để biết hộ.
Đức Phật chỉ thẳng việc tu của Tăng Ni, Phật tử. Tu bao nhiêu, sửa mình bao nhiêu, thấy rõ bấy nhiêu. Xưa kia gặp trái tai gai mắt nổi sân, tranh nhau phải trái, cãi nhau, khổ mình mệt người lại còn kết nghiệp để khổ ngày mai. Nay tu được bước nào, kết quả ngay bước ấy. Đó là chuyện rõ ràng đâu có mơ hồ viển vông. Chỉ vì chúng ta thiếu nhận định sáng suốt mà đâm ra vu vơ hư hão. Thật đáng thương cho bao nhiêu Phật tử không được học, không biết tu. Đức Phật đã dạy do Hoặc kết Nghiệp chiêu vời quả Khổ. Hoặc là mê si. Si là bản chất của tham sân. Diệt tham sân si là giải thoát cả ba chướng, phiền não chướng, nghiệp chướng và báo chướng. Đức Phật dạy lý vô thường, lý vô ngã, nhân duyên sanh v.v… đều là những sự thật rõ ràng trước mắt. Phật dạy pháp môn luyện hơi thở, ích lợi về sức khỏe tinh thần và cơ thể rất minh bạch. Chỉ cần tu tập là thấy ngay không đợi thời gian nào cả. Chỉ bởi vì phàm phu lo ăn lo mặc lo trăm thứ, lòng dạ ngày đêm tơi bời những phải những quấy. Ba nghiệp tham sân si che lấp đầu óc tim gan nên cái chân thật ngay nơi mình không bao giờ nhớ đến. Bởi chúng ta không nhớ cho nên các Tổ nhắc đi nhắc lại mãi, đắng lưỡi khô môi vẫn phải nói.
Đi vào giáo lý Đại thừa, chúng ta sẽ thấy Phật pháp càng thiết thật hơn. Trong nhà thiền, các Thiền sư thường dạy những người đi tham cứu du học: “Hãy nhìn lại gót chân mình”. Ngó lại mình là việc rất ít người để ý.
Học giáo lý Đại thừa, nếu không có một cái nhìn thấu đáo rất dễ bị lạc lõng. Ngôn ngữ khó hiểu huyền bí, vì muốn nói đến chân tánh không hình không tướng siêu phàm. Như muốn nói sự thật trong đời sống cho những người đang chiêm bao nghe.
Mã Tổ cùng thị giả là Bách Trượng kinh hành trong vườn. Mã Tổ chỉ một đàn chim bay ngang qua hỏi: Chim gì đó?
- Thưa bầy vịt trời.Đâu? Thưa bay mất rồi.
Mã Tổ nắm mũi thị giả vặn mạnh một cái. Thị giả kêu thất thanh. Mã Tổ hỏi: “Sao nói bay mất rồi?”. Ngay đó Bách Trượng tỏ ngộ.
Cảnh Thanh hỏi thị giả: Tiếng gì thế?
- Thưa rắn bắt nhái nên nhái kêu.Có chúng sanh khổ lại có khổ chúng sanh!
Mã Tổ vặn mũi Bách Trượng để Bách Trượng thấy cái không mất ở nơi mình, trong khi cảnh là đàn vịt đã mất. Con nhái bị rắn bắt là chúng sanh khổ. Còn khổ chúng sanh là người quên mình theo vật. Chạy theo âm thanh sắc tướng, tâm chuyển động nên bị vô thường chi phối, do đó chịu khổ luân hồi, làm chúng sanh hết thân này sang thân khác. Khi nghe tiếng chỉ biết tiếng mà không nhớ mình. Khi thấy cảnh chỉ biết cảnh mà không nhớ mình. Vì vậy cảnh khổ gọi là chúng sanh khổ. Quên mình là khổ chúng sanh.
Khi nghe hỏi, muốn không bị chê là khổ chúng sanh, chúng ta nên đáp: “Quán Âm diệu trí lực, năng cứu chúng sanh khổ”.
Lục Tổ:
Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác
Ly thế mích Bồ-đề
Kháp tợ tầm thỏ giốc.
Phật pháp ngay trên thế gian. Không thể lìa thế gian mà có giác ngộ. Lìa thế gian tìm giác ngộ, khác nào tìm sừng thỏ. Sừng thỏ đâu có mà tìm.
Thí dụ: Đứng trước căn nhà sụp đổ, mình giác ngộ lý vô thường, lý nhân duyên. Nếu định tâm tu tập thì mỗi trần mỗi sự đều là nhân duyên giác tỉnh.
Thiền sư Bổn Như đến tham vấn Tôn giả Pháp Trí: Ngài đọc Pháp Hoa, Kim Cang v.v… Kinh nào cũng tự nói là vua trong các kinh. Vậy kinh nào là vua thật?
Tôn giả bảo: “Ông coi kho cho ta ba năm, ta sẽ vì ông nói”.
Bổn Như lãnh chức tri khố. Đủ ba năm ông xin Hòa-thượng nói.
Tôn giả gọi: Bổn Như!
Ông: Dạ! Ngay đó ông liền ngộ, liền biết vua các kinh.
Chỉ cần một tiếng “dạ” là thấy tánh. Việc hết sức gần mà từ lịch kiếp chúng ta cứ quên. Ngài Pháp Trí tợ nham hiểm, bắt làm tri khố ba năm mới dạy. Nhưng chính ba năm đó súc tích, làm cho ngài Bổn Như thấy chỗ quan trọng. Ngộ xong Ngài trình kệ:
Xứ xứ nơi nào cũng là đường về.
Nơi nơi vốn vẫn là quê nhà.
Xưa nay nó vẫn là sự hiện tại
Hà tất đợi suy lường.
Thiền sư Chân Tịnh: Sáng ngày cạo tóc, giật mình thấy tóc bạc như tuyết dính đầy dao. Mình cũng như tất cả ai ai, tuổi xanh phải đi qua. Thời gian ép ngặt. Đã muốn vượt sanh thoát tử không thể hẹn sáng hẹn chiều.
Nhân mùa Xuân đến, chúc tất cả Tăng Ni Phật tử, năm sắp tới và mãi mãi về sau, giờ nào, ngày nào, tháng nào, năm nào cũng là thời giờ tu hành đừng có chần chờ. Dù ở thôn quê hay thị thành, dù ở bãi biển hay trên non, nơi nơi đều là đạo tràng Bồ-đề.
TÙY DUYÊN BẤT BIẾN
(Tất Niên Quý Hợi 1983)
Thiện Chiêu thiền sư ở Phần Dương (đời thứ năm Lâm Tế), ngày giỗ mẹ cúng rượu thịt. Xong rồi mời đại chúng thọ dụng. Không ai dám vào tiệc. Chỉ một mình Ngài ăn uống đường hoàng. Chúng 500 vị bỏ đi hết, chỉ còn lại có 8 người. Ngài vui mừng nói: “Những kẻ mộ danh đã đi hết, còn lại là những lòng tin chắc thật mới có thể kế thừa”. Quả nhiên về sau hai đệ tử lỗi lạc là Hoàng Long khai dòng Lâm Tế chánh tông và Dương Kỳ khai dòng Lâm Tế gia phổ.
Triều Tống có một vương tước mời Ngài về kinh đô trụ trì. Ngài từ chối. Sứ nói: “Ngài không đi thì con xin ở đây luôn vì về sẽ bị trị tội”. Ngài họp chúng bảo: “Nay ta phải đi, có ai theo ta được không?”. Một vị Tăng bạch: “Con theo Hòa-thượng được, mỗi ngày con đi 50 dặm”.
̶ Chưa được! Một vị khác thưa: “Ngày con đi 70 dặm, con xin theo Hòa-thượng”.
̶ Chưa được! Cuối cùng thị giả xin theo: “Hòa-thượng đến đâu con đến đó”. Ngài ngồi kiết già nói: “Ta đi đây” rồi tịch. Thị giả đang đứng khoanh tay ở sau cũng tịch theo.
Hôm nay sửa soạn đón xuân Giáp Tý, tôi xin giải thích hai bài kệ của Thiện Chiêu thiền sư viết vào một buổi sáng ngày Tết.
Xong một vòng Giáp Tý
Ai biết được sanh tử
Bốn đại, bọt trong mơ!
Thân, lá trôi trên nước!
Mây nổi chẳng bền lâu
Đường mía nào ngọt mãi.
Chỉ có tánh linh quang
Khoáng kiếp không hề mất.
Tôi nay sáu mươi mốt
Tóc bạc tranh nhau hiện.
Huyễn chất dường mây nổi.
“Không tâm”, đồng Phật Tổ!
Xuân đến chẳng khen hoa
Thu đi nào chê vật.
Nhớ lại năm ba mươi
Thoáng qua như điện chớp.
Một vòng Giáp Tý: 60 năm. Bọt nước là hình ảnh của mong manh. Mộng mơ là huyễn dối. Nay thân chúng ta chỉ có giá trị một giọt nước trong giấc mơ. Lá trôi trên dòng nước nêu biểu một cuộc đời vô định, vô chủ, hoàn toàn lệ thuộc duyên ngoài, không thể có một chút tự quyền. Mây là thứ không có thật thể, do nước gặp sức nóng bốc lên mà thành, bay biến không ngừng theo trò chơi của gió. Chợt gặp lạnh lại hóa nước để rơi xuống đất. Chúng ta không giác tỉnh được sự thật này, sân si chấp ngã. Đâu ngờ ngay trong thân tâm vô thường giả huyễn lại có tánh linh quang vô sanh bất diệt. Vậy tu là vận trí trạch pháp (một cành trong bảy giác chi), giác biết tạm bợ vô thường là gốc đau khổ, trở về sống với Phật tánh kiên thật.
“Không tâm” tức là xóa sạch tất cả thị phi, thiện ác, hay dở, tốt xấu, nghĩa là không duyên theo cảnh để phân biệt mà trở về sống với chân tâm không hình không tướng, không cố chấp, không vướng mắc. Bao nhiêu vọng tưởng buông hết.
Tóm lại, ý nghĩa hai bài kệ nhắc người học đạo cái mục đích thoát khỏi sanh tử luân hồi. Thời gian trôi mau, thân tứ đại tiến tới ngày tan rã. Mừng Xuân là mừng cái chết sắp đến phải không? Người xưa một ngày qua chưa thấy đạo còn khóc thay, huống chi chúng ta một năm qua chưa thấy đạo, làm sao không tủi? Nếu cứ nghĩ năm tới cũng sẽ như năm nay và năm tới nữa cũng cứ như thế thì cả cuộc đời là một con số 0, thật là uổng phí kiếp làm người. Cho nên chúng ta phải lập nguyện buông xả những sanh diệt, trở về sống với tánh linh quang vô sanh bất diệt. Muốn như vậy phải “Không tâm” như Phật Tổ.
- Một hôm quận trưởng tại địa phương đến thăm Thiền viện: Bạch Hòa-thượng! Tăng chúng đông như thế này có tọa thiền không? ̶ Không!Có tụng kinh không? ̶ Không!Thế các Ngài làm gì? ̶ Làm Phật, làm Tổ.
Giáo lý Đại thừa nằm trong hai điểm then chốt: Tùy duyên và Bất biến. Đây là một nghệ thuật sinh sống để có thể hoàn mãn chí nguyện chuyển thế gian thành Tịnh-độ. Thí dụ tách nước để trên bàn đây. Ai quyết định nước này sẽ thành cái gì? Phải đáp việc này tùy duyên. Nấu chín nó sẽ bốc thành hơi. Bỏ vào tủ lạnh nó là nước đá. Vắt vào tí chanh nó được tên là nước chanh. Đem nấu với thuốc gọi đây là chén thuốc v.v… Vậy chén nước này tùy duyên sử dụng không cố định. Cứ khư khư nắm chặt quyết định một thứ hẳn là lầm lắm. Từ cổ chí kim không một sự vật nào an ở mãi một chỗ mà luôn chuyển theo duyên. Cho nên sự vật mỗi mỗi đều là một dòng linh động đổi thay. Thế mà chúng ta cứ nhìn sự vật bằng con mắt chấp nê nên đời sống gặp nhiều chướng ngại. Hai chữ thời trang nói rằng mỗi thời có sự trang sức khác nhau. Thời chúng ta thế nào, chúng ta vui hòa sống như thế nấy. Thời con cháu chúng ta đổi khác thì nó phải sống khác, nếu chúng ta bắt nó sống như chúng ta thì nó sẽ bị bạn bè chê trách là lạc hậu. Hiểu lý tùy duyên chúng ta cởi mở những cố chấp về phong tục, về tập quán, về những ý kiến riêng tư. Do đây mình đỡ khổ và những người chung quanh đỡ khổ. Ai nấy vui vẻ sống thích ứng với mọi hoàn cảnh mà không bám chặt vào một cái gì. Thí dụ chúng ta ngồi trên chiếc xe đang chạy, xe chạy ngang cây số 70. Chúng ta dùng ngón tay chỉ: “Đúng kia là cây số 70”. Mọi người nghe tiếng, quay lại nhìn theo tay mình thì xe đã chạy quá mấy trăm thước. Xe không dừng thì chúng ta phải nhìn theo sự không dừng mới đúng với sự thật. Biết sự vật vô thường, không luyến tiếc quá khứ mà hằng chuẩn bị vị lai. Can đảm trước sanh già bệnh chết, an bình trong khi sự nghiệp đổ vỡ, các thứ tình cảm đổi thay. Để bền lòng trên đường chí nguyện tu hành, chớ không phải cứ tùy duyên để đến nỗi mất gốc. Cho nên đạo Phật chủ trương tùy duyên mà bất biến. Cảnh đổi thay nhưng việc tu hành thì ở núi cũng tu, gặp duyên phải về đồng bằng vẫn tu, vào thành thị cũng tu. Tu là bất biến còn chỗ ở thì tùy duyên. Bao giờ cũng an vui vì tu hành vẫn tinh tấn. Nếu không thiểu dục tri túc, không hiểu lý tùy duyên. Cứ ở chỗ này thì nhớ chỗ kia, đến chỗ kia lại mong chỗ khác thì Bồ-đề hóa ra phiền não. Nếu trường hợp nào, hoàn cảnh nào, cũng là cơ duyên giác tỉnh thì nụ cười giải thoát lúc nào cũng ở trên môi. Đoàn tụ thì vui vì ấm áp, chia ly thì thanh thú tĩnh thần. Việt Nam ta có câu: “Hưởng cho hết những ngày trời”, nghĩa là sống ngày nào không uổng phí một giây phút; không hão huyền luyến tiếc quá khứ, mơ ước vị lai mà tận dụng thời giờ hiện tại. Oán hờn buồn trách vừa mất thời giờ vừa tạo thêm nghiệp mới. Kiêu căng tự hào tăng thêm ngã ái chẳng thể tiêu nghiệp cũ. Còn giác tỉnh thì thuận hay nghịch, cảnh nào cũng là duyên để ra khỏi luân hồi.
Cố gắng giữ tâm cho Không để rỗng rang tự tại, mỗi suy tưởng lăng xăng nổi lên liền giác biết như ngài Thiện Chiêu nói: “Tâm Không, đồng Phật Tổ”. Có trí tuệ dứt sạch phiền não thì đường tu mới an vui. Đây là cái vui vì chân thật nên vĩnh cửu. Hôm nay là buổi cuối năm, sắp từ biệt năm cũ, chúng ta hãy ôn lại những dở hay, tổng kết những lỗ lãi, để sửa soạn một chương trình bước sang năm mới. Mong rằng ai nấy vui vẻ tùy duyên để tiêu xả tất cả cố chấp nghiệp xưa. Nhưng phải bất biến trong sự nghiệp tu hành để mau trở về tánh linh quang bất diệt.
PHÁP MÔN KHÔNG HAI
(Đón Xuân Giáp Tý 1984)
I. Kinh
A. Tất cả người tu, muốn thoát khổ, phải dùng trí tuệ Bát Nhã soi sáng, phá tan mọi chấp nê của chính mình. Có hết chấp mới hết khổ nên mở kinh, Bát Nhã dạy “Sắc tức là không”.
- a) Trong sắc có không. Dùng kính hiển vi khuếch đại tối đa thấy trong sắc thân chúng ta, phần không nhiều hơn phần sắc, cho nên mới có không khí ra vào, máu huyết lưu thông.
b) Trong hư không có đủ thứ vi trùng, bụi nhỏ, các khí chất. Cho nên không, không hẳn là không; sắc, không hẳn là sắc. Trong cái này có cái kia, trong cái kia có cái này. Như vậy thì vẫn có không và sắc, hai cái đối đãi nhau.
- Trí tuệ Bát Nhã thấy không có không riêng ngoài sắc, không có sắc ngoài cái không. Nghĩa là không có hai cái đối đãi nhau. Mà chỉ có cái Không của bản tánh. Sắc chất là do duyên hợp mà có, do nhiều yếu tố, nhiều nguyên nhân hợp lại mà thành nên không có thể chất cố định. Đủ duyên hợp gọi là có, hết duyên tan gọi là không.
Sắc hay Không đều là tướng của duyên, không tự tánh. Có trí tuệ rõ biết lý này thì không còn tranh cãi hơn thua, không quan niệm tốt xấu, thiện ác, phải quấy. Biết sắc không, danh tự, ngôn ngữ chỉ là những giả đặt để tiện sống trong cuộc đời thế tục chớ không hề có nghĩa cứu cánh. Tinh thần Đại thừa thấy phiền não tức Bồ-đề mà Bồ-đề không khéo hóa phiền não. Thí dụ tụng kinh là Bồ-đề. Người đánh mõ không vừa ý, bực mình, thế là Bồ-đề thành phiền não. Đang giận dữ đỏ mặt một sư huynh nhắc: “Đã tu mà sân si sao?”. Liền xấu hổ hết giận, tâm lặng lẽ thanh tịnh là Bồ-đề.
B. Pháp Hoa. Phẩm Tựa
Toàn Phẩm Phật không nói một lời. Ngài kiết già nhập định. Từ lông trắng giữa hai chân mày phóng hào quang, soi thấu trên suốt trời hữu đỉnh dưới đến địa ngục A-tỳ. Trong hào quang bày rõ nào nhân nào quả của cả bốn cõi Thánh, sáu cõi phàm. Hai chân mày ở hai bên. Hào quang tượng trưng trí tuệ. Giữa chặng mày là không kẹt hai bên. Phải trí tuệ này mới tột cùng được sanh tử luân hồi và rõ con đường thành Phật. Kinh Pháp Hoa gọi là Tri Kiến Phật. Kinh Lăng Nghiêm gọi là căn bản Bồ-đề, tức là cái Biết của sáu giác quan.
Tánh giác này tất cả hữu tình vốn đầy đủ. Sống với tánh giác là Phật. Mê tánh giác, duyên theo sáu trần phân biệt tốt xấu hay dở, thành thấy có hai bên đối đãi. Tâm phan duyên này là căn bản luân hồi.
Phẩm thứ 12
Long Nữ nương đức Văn Thù, nhận được tri kiến Phật liền thành Phật ở cõi Vô Cấu, trước sự ngơ ngác ngạc nhiên của Quyền thừa Bồ-tát Trí Tích và Thanh–văn A-la-hán Xá Lợi Phất (vì ở hai ngôi này chưa tỏ được tri kiến Phật). Long Nữ có ba tệ: Tám tuổi là còn con nít (si), thân rồng là súc sanh (sân), nữ tướng ngã ái nặng (tham). Ở dưới đáy biển là báo chướng trầm nịch nặng nề. Ngộ tri kiến Phật, sống với Phật tánh, liền rũ sạch vô minh. Như trong nhà tối cả ngàn năm, nếu có thể thắp một ngọn đèn liền tan hắc ám.
C. Duy Ma Cật. Phẩm Bất Nhị Pháp Môn
Ba mươi hai Bồ-tát giải thích về pháp môn này. Đại khái sanh diệt là hai, nhận được tánh không sanh không diệt, được Vô sanh pháp nhẫn là nhập pháp môn Bất nhị. Thấy sanh không thật sanh, diệt không thật diệt là nhập lý không hai. Cuối cùng Duy Ma Cật lên pháp tòa ngồi im lặng. Văn Thù khen nức nở: “Hay lắm! Hay lắm! Không văn tự ngôn ngữ mới thật nhập pháp môn Bất nhị”.
II. Thiền
Tín Tâm Minh của Tổ Tăng Xán
Chí đạo thật không khó,
Chỉ cần đừng chọn lọc
Cứ không còn yêu ghét
Liền rõ ràng minh bạch.
Nếu sai biệt hào ly
Đạo xa như trời đất.
Muốn chí đạo hiện tiền
Chớ bận lòng thuận nghịch.
Chỉ biết rõ sáu trần huyễn dối, tơ hào chẳng phan duyên. Tin chắc chân tâm vô sanh diệt, an định nơi tự tánh.
Pháp Bảo Đàn. Phẩm Phó Chúc
Lục Tổ dạy: Ai hỏi thế nào là có? Đáp: Bởi không mà có. Hỏi: Thế nào là không? Đáp: Bởi có thành không.
Giải thích rằng có và không đối đãi, nương nhau để thành nhau. Phàm Thánh, thiện ác cũng vậy. Thánh nhân biết rõ sáu trần huyễn hóa, ta người hư ngụy nên an định nơi tự tánh. Phàm phu gặp nhau không ngớt nói chuyện hơn thua tốt xấu. Sách nói: “Điểm sắt hóa ngọc vàng còn dễ chớ khuyên người buông bỏ thị phi (phải quấy) thật là khó”.
Thạch Đầu Hòa-thượng
Một vị Tăng hỏi: Thế nào là giải thoát?
Ngài đáp: Ai trói ngươi?
Hỏi: Thế nào là Tịnh-độ?
Đáp: Cái gì làm nhơ ngươi?
Hỏi: Thế nào là Niết-bàn?
Đáp: Ai đem sanh tử đến cho ngươi?
Đây là ứng đối đúng như lời dạy của Lục Tổ, để minh bạch sanh tử đã không thật thì Niết-bàn cũng không thật, hai cái đối nhau đều không thật. Chấp thật là ngu si. Biết là giả liền hết chấp. Như bị mắng là con chó. Nếu nổi giận, tức là đã cho lời mắng là thật, là quan trọng. Chấp là nguồn gốc khổ đau. Tu là tập giác tỉnh, cởi mở vọng chấp gọi là giải thoát trói buộc.
Thiền sư Mục Châu
Tăng hỏi: Thủ xả là mắc kẹt hai bên. Nay dẹp bỏ cả hai thì lúc đó thế nào? Sư hỏi lại: Hôm qua trồng cà hôm nay trồng dưa là thế nào?
Câu chuyện dưới đây rõ nghĩa này.
Tổ Quy Sơn
Sơ Sơn hỏi: “Câu có câu không như bìm leo cây. Bỗng dưng cây ngả bìm khô thì câu về chỗ nào?” (khi hết chấp hai (có và không) rồi thì thế nào?). Tổ cười ha hả không nói một lời. Sơ Sơn tức mình thưa: “Con từ ngàn dặm mang khăn gói tới đây hỏi đạo, mà Hòa-thượng đùa như vậy”. Tổ gọi thị giả đem tiền hoàn lại công ông đi xa rồi dặn: “Sau sẽ có con rồng một mắt vì ông khai ngộ”. Sơ Sơn đảnh lễ ra đi.
Một thời gian lâu xa, Sơ Sơn gặp Huệ Chiếu thiền sư. Ngài chỉ có một mắt. Sơ Sơn đem câu chuyện trên ra kể và hỏi lại: Cây ngả bìm khô rồi câu về chỗ nào? – Nụ cười của Quy Sơn càng thêm tươi! Ngay đó Sơ Sơn tỏ ngộ nói rằng: “Trong tiếng cười của Quy Sơn có con dao”. Cái cười của Quy Sơn và cái im lặng của Duy Ma Cật đồng một ý nghĩa. Nên nói: “Trong tiếng cười của Quy Sơn có con dao” hay nói “Có bình cam lồ” cũng vậy. Đầu năm mới chúc quý vị được nụ cười thật tươi của Tổ Quy Sơn.
TÍN TÂM
(Xuân Bính Dần – 1986)
Phần nhiều người tu tin Phật, tin Pháp, tin Tăng nhưng rất ít tin tâm mình. Cần phải có phương pháp làm sao để nhận hiểu và chịu tu hành trở về bổn tâm.
Người tại gia nhiều vị nói: “Tôi không cần đi chùa, tôi chỉ tu tâm cũng được rồi”. Hoặc thường nói: “Tánh tôi nóng lắm, tâm tôi chung thủy lắm”. Phần nhiều chúng ta cứ tóm lại tất cả những gì thuộc lãnh vực “Biết” đều gọi là Tâm. Tâm là tinh thần, một danh từ đối đãi với vật chất; nhà chùa cũng thường nói Sắc và Tâm.
Phật pháp phân biệt rành rẽ cái biết do phân biệt (minh) và cái biết bất động, vô phân biệt, thầm lặng, cực kỳ sáng suốt, có vô biên công dụng siêu phàm (giác). Nói một cách dễ hiểu là vọng tâm và chân tâm.
Vọng tâm là cái biết thuộc về phân biệt suy nghĩ. Niệm niệm sanh diệt, hư vọng không thật không bền.
Chân tâm không hình tướng, thường hằng không biến. Phàm phu quên hẳn chân tâm tuy hàng ngày vẫn sinh sống nhờ chân tâm.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương: Tỳ-kheo các ông chớ tin tâm mình, khi nào chứng A-la-hán rồi mới tin được Tâm.
Chứng A-la-hán là đã phá xong tưởng ấm, không còn suy nghĩ, niệm niệm biến hóa sanh diệt nữa.
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Y nhất tinh minh sanh lục hòa hợp”. Thí dụ cái biết nơi con mắt (nhãn thức) mượn nhiều duyên hòa hợp mới có (da, thịt, xương, máu, tâm, cảnh v.v…) cái biết của cả sáu giác quan đều vậy. Tuy nhiên, trong cái công dụng chạy theo duyên cảnh đó, lại có cái thật thể bất động mà chúng ta không ngờ. Phật Tổ dạy chúng ta định thần để trở về chân tánh. Các kinh thường dùng thí dụ: “Phải như ngỗng chúa khi uống sữa, nuốt lấy sữa mà phun nước lã ra”. Cũng vậy, nơi sáu căn sinh hoạt trong sáu trần, chúng ta cần an định nơi tự tánh, đừng mê muội để cho nghiệp dụng kéo tinh thần đi biến hóa bừa bãi. Mắt nhìn sắc, tai nghe âm thanh, chúng ta gắng an định để sáng suốt, đừng bị vọng tâm nghiệp thức chi phối cũng đừng để bóng ảnh vọng trần hấp dẫn cuốn lôi.
Tổ Quy Sơn hỏi thiền sinh Vân Nham: Nghe nói ông biết làm sư tử múa phải không?
- Dạ phải.
- Múa được mấy xuất?
- Dạ sáu xuất!
Sau này Vân Nham về hỏi lại Bổn sư là Dược Sơn: Hòa-thượng biết làm sư tử múa không?
- Biết.
- Mấy xuất?
- Một.
Vân Nham kết luận một tức là sáu, sáu tức là một. Ông Thầy múa một xuất là nhất Tinh Minh, đệ tử múa sáu xuất là lục hòa hợp. Từ một chân thật Tinh Minh theo duyên phát ra sáu cửa. Sư tử là chúa núi rừng, rống lên một tiếng muông thú đều sợ hãi không dám chống cự. Chân thật ví như sư tử. Vọng tưởng ví như muông thú.
Tổ Ba La Đề nói về Phật tánh: Nơi thai gọi là thân, ở đời gọi là người, nơi mắt tai mũi lưỡi thân gọi là thấy nghe ngửi nếm xúc, nơi tay nắm bắt, nơi chân chạy nhảy. Biến hiện thì khắp hằng hà sa thế giới, thâu lại thì chỉ trong hạt bụi. Rõ ràng Tổ dạy sáu căn đều mang tính chất Phật. Kinh Pháp Hoa gọi là tri kiến Phật.
Thiền sư Đại An dạy chúng: “Các ngươi ai cũng có một hòn ngọc quý, từ con mắt phóng quang, soi thấy núi sông cây cỏ vạn hình vạn sắc; từ tai phóng quang, nhận lãnh phân biệt tất cả âm thanh thiện ác. Sáu cửa ngày đêm phóng quang tam muội. Các ngươi không biết cứ nhận các bóng ảnh trong thân bốn đại làm Tâm…”.
Hòn ngọc quý này kinh Lăng Nghiêm gọi là nhất Tinh Minh. Bóng ảnh trong thân bốn đại là vọng tưởng suy nghĩ, tính toán tới lui những danh cùng tướng. Có danh có tướng là có bóng gieo rắc vào tâm. Mình duyên theo những bóng ảnh đó mà khởi tâm suy nghĩ. Như vậy là cả ngày duyên theo bóng nên gọi là tâm vọng tưởng cũng gọi là tâm phan duyên. Tâm này dẫn chúng ta đi sanh tử luân hồi như mộng như huyễn. Trái lại, nếu chúng ta an định sống với chân tâm thật tánh thì thoát quỷ vô thường sanh sanh diệt diệt. Đây là then chốt của sự tu Đại thừa.
Ngài Huệ Khả đã nhận được pháp tu nơi Tổ Bồ Đề Đạt Ma qua câu chuyện an tâm. Một thời gian sau, một hôm, Ngài bạch với Tổ: “Từ đây về sau con dứt hết các duyên”.
- Chớ rơi vào đoạn diệt.
- Thưa không.
- Con làm thế nào?
- Con rõ ràng thường biết, nói không thể đến! (Rõ ràng thường biết, chữ Hán gọi là Linh Tri, không dùng lời nói mà diễn tả được).
- Tổ bảo: “Đây là chỗ truyền của chư Phật chớ có hoài nghi”.
Như thế gọi là ngài Huệ Khả đã giác ngộ, đã minh tâm kiến tánh. Tâm hằng biết này chúng ta chẳng ai không có, nhưng vì mải mê theo tâm phan duyên, không an định tinh thần lại được nên tâm chẳng minh, tánh chẳng thấy. Nay chúng ta phải tin cho sâu, nhận cho kỹ tâm mình.
Ngài Thần Tán đắc pháp nơi Tổ Bách Trượng rồi trở về với thầy Bổn sư. Thầy chuyên tu theo giáo lý, gõ mõ tụng kinh hoài. Một hôm Thầy tắm, ngài kỳ lưng. Ngài vỗ lưng Thầy nói: “Điện Phật đẹp mà Phật không Thánh (không sáng)”. Ông thầy ngó lại. Ngài tiếp: “Tuy Phật không Thánh mà vẫn hay phóng quang”.
Lại một hôm, Thầy ngồi bên cửa sổ xem kinh. Có một con ong chui đầu vào tấm giấy dán cửa cầu lối ra. Ngài nói: “Hư không rộng rãi thênh thang như thế kia mà chẳng chịu ra. Vùi đầu vào giấy cũ biết năm nào ra được?”. Rồi ngài đọc kệ:
“Cửa không chẳng chịu ra.
Quá ngu chui cửa sổ.
Giấy cũ trăm năm vùi,
Ngày nào thoát đầu ra”.
Thầy hiểu đệ tử đi học bao nhiêu năm đã được một cái gì. Hôm sau, chúng hội họp, Thầy mời Ngài lên tòa giảng. Ngài đọc kệ của Tổ Bách Trượng:
Linh Quang độc chiếu,
Thể hiện chân thường.
Tánh tâm không nhiễm.
Chỉ cần lìa (vọng) duyên.
Siêu vượt căn trần,
Không cùng văn tự (chữ nghĩa câu văn).
Vốn tự viên thành,
Tức như như Phật.
Nghe xong, ông Thầy liền ngộ.
Trong Tín Tâm Minh, Tổ Tăng Xán dạy:
Nếu mắt không ngủ,
Bao mộng tự trừ;
Tâm không biến đổi,
Vạn pháp nhất như.
Tâm không biến khác tức không khởi niệm. Người không biết tưởng nhất như là một bề không tất cả, nên cần quán không để tiến tới nhất như. Đây Ngài dạy chỉ cần đừng dấy niệm, vạn pháp liền nhất như. Đồng nghĩa với câu trên: “Đãn lìa vọng duyên tức như như Phật”. Tổ Tăng Xán giảng tiếp:
Viên đồng thái hư,
Không thiếu không dư,
Chỉ vì thủ xả
Cho nên chẳng như.
Đã phân biệt tốt xấu, tâm liền chuyển thành yêu ghét thủ xả. Dấy niệm là có chấp hai. Lặng niệm thì có biết mà không có hai, tức là như như Phật.
Đường lối tu hành thật rõ ràng. Để kết thúc bài Tín Tâm Minh, Tổ Tăng Xán nói: “Tín tâm bất nhị, bất nhị tín tâm”. Tin tâm là không hai, không hai tức là tin tâm. Nếu còn thấy hai là chưa tin Tâm. Tin là tin nhận chân tâm. Chân tâm vô niệm. Còn dấy niệm là còn thấy hai. Tin được Tâm mình, nhận được ông Phật mình thì sớm muộn gì cũng thành Phật nên nói kiến tánh thành Phật (ông Phật sẵn của mình). Nếu còn để vọng tưởng dẫn dắt thì dù nói cao xa giáo lý những gì cũng không đạt được bổn tánh để thành Phật.
Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác (Tổ Vĩnh Gia):
Thể như hư không, không bờ mé
Không lìa tại chỗ, thường trạm nhiên.
Tìm tức biết anh không thể thấy.
Tìm là dấy niệm. Vọng tưởng như cái phên che sự thật hiện tại. Nghĩ tới cái cây, vọng tưởng chỉ duyên theo cái cây. Nghĩ tới một người, vọng tưởng chỉ duyên theo một người. Giới hạn của nó nhỏ, thời gian sanh diệt trong nháy mắt.
Chúng ta bỏ tâm chân thật thường trụ ở khắp mười phương để nhận cái hư dối làm mình. Nhiều người nghi ngờ: “Phật bỏ mình không cứu”. Nhưng hãy xét lại xem mình bỏ Phật hay Phật bỏ mình. Điều Phật thiết tha chỉ dạy, chúng ta không màng. Chúng ta không cố gắng thực hiện. Chúng ta bỏ qua bởi vì còn mải mê cuồng loạn, nhận bốn đại làm thân, nhận vọng tưởng duyên theo bóng dáng sáu trần làm tâm. Con ông Trưởng giả kho báu đầy nhà mặc tình hưởng nhưng không chịu nhận, cam đi hốt phân để sống qua ngày. Ấy là còn khá, lại còn lắm kẻ thích làm ma quỷ trâu chó. Kìa hãy xem ông bà kia ngồi trước mâm cao cỗ đầy. Trông thật sang thật ngon. Nhưng quá no sinh bội thực. Hoặc thức ăn khó tiêu khiến đau dạ dày đau ruột. Khi ấy mới biết vui là gốc khổ. Ngày hôm sau cao lương mỹ vị hóa ra phân thối. Vậy mà hài lòng quý trọng thứ hạnh phúc đó.
Như thế chủ yếu tu hành đạo Phật là tin nhận nơi mình cái chân thật.
Bàng Long Uẩn cư sĩ kệ rằng:
Hãy tự vô tâm nơi vạn vật,
Sợ gì vạn vật quấy nhiễu ta.
Trâu sắt đâu sợ sư tử hống,
Khác gì người gỗ thấy chim vẽ.
Người gỗ bản thể tự vô tình
Chim vẽ gặp người cũng chẳng kinh
Tâm cảnh như như, cứ như vậy.
Lo gì Bồ-đề đạo chẳng thành.Được khen nhớ hoài, bị chê giận mãi nên khó tu. Như thế gọi là hữu tâm với vạn vật. Hữu tâm tức là hữu tình. Thấy là bị cột, nghe là vướng mắc, không tự giác lỗi cấu nhiễm của mình nên mới đổ thừa tại người tại cảnh. Trâu sắt, người gỗ, chim vẽ, ba hình ảnh của không sợ. Không sợ vì sao? Vì vô tâm vô tình. Khuyên chúng ta tập bình tĩnh thản nhiên trước mọi thuận nghịch để sớm mãn nguyện Bồ-đề.
TÂM HẠNH NGƯỜI TU
(Tất niên Giáp Tý -1984)
Chứng Đạo Ca của ngài Vĩnh Gia:
Thích tử nghèo cùng, miệng xưng
bần Tăng
Thật ra thân nghèo mà đạo chẳng nghèo
Thân nghèo áo vá, tâm chứa châu
vô giá.
- Đây Tổ chỉ cho chúng ta bổn phận kẻ xuất gia. Thân phải khiêm tốn về y phục còn tâm là hòn ngọc quý, chớ không nên thân thì sang trọng còn tâm rỗng tuếch.
- Mặc ai báng, mặc ai chê.
Cầm lửa đốt trời luống tự nhọc
Ta nghe như được uống cam lồ.
Những lời chỉ trích đều tiêu dung vào chỗ không thể nghĩ bàn. Người ta mắng mình tức là lòng họ đã nổi lửa. Mình sân lại tức là bồi ở tâm mình theo lửa của họ mà bốc cháy. Còn nếu họ nhúm lửa ở hư không thì bao giờ hư không cháy? Thực tâm tu hành, từng giây phút soi tâm thì mặc tình khen chê, mặc tình phỉ báng. Thấy phiền não, hàng phục phiền não là cái vui của sự tu hành. Gặp âm thanh sắc tướng để khai tuệ giác tỉnh nên Tổ coi những lời trái ý như nước cam lồ, không một thứ thuốc bổ nào quý bằng, không một mùi vị nào ngon hơn mát hơn. Bổn phận người tu là mỗi khi bị khinh miệt hãy xét tâm mình đã rỗng rang tự tại chưa, tìm phương tiện (các pháp quán) để tiêu dung tất cả thân tâm cảnh vào chỗ không thể nghĩ bàn. (Ngày cuối năm chúng ta hãy tự kiểm điểm xem bao nhiêu lần chúng ta đã đỏ mặt giận dỗi mỗi khi được hân hạnh đón lời chỉ lỗi của chị em).
- Coi lời ác là công đức, đây là xây dựng, đây là thiện tri thức. Nếu chưa thể hàng phục tâm oán thân mỗi khi gặp sàm báng thì lấy gì nêu biểu vô sanh từ nhẫn lực?
Đạo lực mình vượt qua được nghịch cảnh tức là đã thắng tham sân phiền não, thắng tức đã thành công trên đường đạo. Người mắng là người thử thách, là thiện tri thức sách tấn sự thành công. Từ bi và nhẫn nhục là tướng của đạo đức. Tu hành là chiến thắng lòng mình chớ không phải chiến thắng kẻ khác. Trước những khó khăn nhục nhã mà cứ lo chống lại các đối tượng bên ngoài, người này chưa khởi công tu hành. Mỗi ngày tụng bao nhiêu thời khóa mà đối cảnh vẫn tham sân, người này chưa hiểu ý nghĩa của thời khóa tụng. Thế nên hàng ngày phải dùng các pháp quán để giác tỉnh sáu căn huyễn hóa, sáu trần ảo ảnh, sáu thức mê lầm, thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã. Tập khai trí tuệ thế nào để chợt lâm sự, trước những tình cảnh khó khăn, những điều trái tai gai mắt, chúng ta vẫn có thể an nhiên tự tại. Đó là trí tuệ vô sanh đã sâu thiện căn nên phát lực từ nhẫn.
Một Thiền sư Việt Nam đời Lê
Tên Ngài đã bị thời gian xóa hẳn nhưng bài “Thiền Tịch Phú” bằng tiếng Việt của Ngài lại dùng tháng năm làm đôi cánh bay từ thế hệ này qua thế hệ khác, trải khắp các chùa Bắc Trung Nam đất Việt:
Sãi tôi nay mộ đạo tu hành
Xả đường kinh lịch,
Chí dốc nên Phật Tổ siêu thăng
Lòng nguyện độ chúng sanh trầm nịch.
Đêm Đông trường, khi mật niệm,
Gióng tiếng chuông thanh thoát
boong boong.
Ngày Hạ tiết, lúc tụng kinh,
Gõ dùi mõ, khoan mau lịch lịch.
Chỉ chuộng một bề đạo đức,
Miệng quản đâu miếng đắng miếng cay.
Vốn vì hai chữ Từ Bi,
Thân nào ngại mặc lành mặc rách.
Xả đường kinh lịch: Xả hết những thế tục sự đã trải qua.
Ý chí thì quyết tu để thành Phật thành Tổ; Từ Bi thì quyết tu để cứu vớt sông mê biển khổ. Phương tiện tu hành thì vừa mật niệm vừa gióng chuông, gõ mõ tụng kinh suốt bốn mùa, đêm ngày mưa nắng siêng năng. Vì quý chuộng đạo đức nên gặp chi ăn nấy không đòi. Vì hâm mộ từ bi nên lành rách không buồn tủi.
Đọc lời Ngài, chúng ta hiểu người xưa tu quyết để thành Phật, không phải như chúng ta chỉ có chí ở chùa. Vào chùa rồi lơ là cho qua ngày tháng, đến nỗi một đời chẳng những chỉ là con số 0, mà còn tạo thêm bao nhiêu tội nghiệp.
Thành Phật là thành gì?
- Giác ngộ viên mãn.
Để làm gì?
- Cứu độ chúng sanh đang trầm nịch.
Bao giờ thành?
- Vì biết đường Bồ-đề còn xa nên siêng năng tinh tấn chẳng kể đêm ngày, Đông Hạ, nghèo khổ đắng cay.
Tuyết Đậu Trùng Hiển thiền sư Trung Hoa.
Châu trong áo kẻ nghèo
Vốn vẫn tròn sáng đẹp.
Chẳng biết quay về tìm
Cứ đi đếm báu người.
Báu người, mình vô ích.
Khuyên anh đừng phí sức.
Chỉ nhận ngọc của nhà
Giá vàng ngàn muôn ức.
Kinh Pháp Hoa: Thí dụ hạt châu buộc trong chéo áo. Chân tâm Phật tánh của mình không nhận lấy, cứ lo tụng kinh, đọc những công hạnh của người khác. Người khác tu, người khác thành Phật. Mình được gì?
Thiền sư Sở Thạch dạy những người tu thiền:
Lắm thầy bên ngoài nên quên mất tâm trong nhà. Cứ một bề mờ mịt đem tánh linh sáng ra ngoài tìm kiếm. Nay nghe nói Phật xuất hiện ở chỗ kia liền lo đi lễ bái. Mai nghe vị Sư kia tu hạnh đặc biệt, lại chạy tới tìm cầu. Tưởng gà là phượng, lá úa nhận là vàng (hai thí dụ trong kinh Phật Bảo).
Những pháp môn Phật dạy là phương tiện để chứng tâm chân thật. Chúng ta dùng phương tiện làm mục đích nên mất cái đích chân thật, chính là tâm mình. Cầu Thầy lội suối trèo non khắp nơi nơi, theo cảnh trôi qua bao năm tháng. Khuyên các bậc làm Thầy, có ai tới hỏi đạo, hãy dạy cho họ biết nhà ai chẳng có đức Quán Thế Âm.
Sơ Tổ Trúc Lâm. Cư trần lạc đạo.
Cư: ở; trần: bụi; lạc: vui; đạo: đường tu.
Ở trong trần lụy mà ưa tu hành thì làm thế nào? Hãy tùy duyên đói ăn mệt ngủ. Biết đạo không phải là cái gì xa xôi kỳ lạ mà chính là cái chân thật sẵn có nơi mình. Như chúng ta thấy, qua sự truyền tâm của Phật cho Tổ Ca Diếp thì ngay cái thấy cái nghe là đạo rồi. Đã nhận được đạo thì cứ y đạo mà sống. Còn ngoài ra tùy duyên, đói thì ăn, mệt thì ngủ, cần nói thì nói, cần đi thì đi, chớ bày thêm suy tính nghĩ lo gì cả. Ngay trong nhà đã sẵn ngọc báu còn phải lo tìm kiếm chi ở bên ngoài. Nếu đã có thể ngay chỗ thấy nghe hàng ngày mà tâm không vướng cảnh thì còn tìm thiền hỏi đạo làm chi nữa? Vì ngay lúc tâm không dính cảnh đó là tu thiền và cũng chính khi ấy hạt châu quý giá hiển lộ. Nên tu không cốt yếu ở nhọc nhằn khổ sở mà chính ở trí tuệ giác tỉnh. Làm sao đừng duyên theo những điên đảo mà an định ngay nơi chân tánh Bồ-đề. Tóm lại, người tu nên chăm chăm lặng lòng mỗi khi đối cảnh. Nếu được như vậy thì đâu cần tham thiền. Trái lại, ngồi thiền năm này sang năm khác mà gặp chi dính nấy thì ngồi thiền có công mà không kết quả. Chúng ta tu hành phải khéo ứng dụng cho đúng.
Thiền sư Đạo Giai (Phù Dung) tiếng đồn đạo hạnh tới triều đình. Vua ban tử y và phong tước hiệu. Ngài từ chối, bị xử đánh đòn vì tội khi quân (khinh vua). Quan địa phương không dám trái lệnh trên nhưng không nỡ đánh người đức hạnh nên mở lời phương tiện: “Theo luật thì tha người bệnh. Nay Hòa-thượng gầy ốm thế chắc trong mình có bệnh?”. Ngài can đảm thành thật: “Thưa, tôi không bệnh”. Dù bị đòn đau nhưng quyết không dối trá.
Còn chúng ta đạo hạnh thế nào? Lăng Nghiêm dạy Trực tâm là đạo tràng. Tâm chúng ta quanh co làm sao lập đạo tràng? Người xưa mất mạng không tiếc nhưng rất tiếc khẩu nghiệp, không nỡ để một vết nhơ.
Thiền sư Đạo Giai để lại cho thế gian một câu nổi tiếng:
“Gặp thanh gặp sắc như hoa trồng trên đá.
Thấy lợi thấy danh như bị bụi rơi vào tròng con mắt”.
Hoa trồng trên đá có bám rễ được không? Bụi rơi vào mắt xốn lắm! Ngày cuối năm, chúng ta túi rỗng chùa không, thật là may mắn, mắt tuệ tha hồ sáng, giới thân mạnh khỏe đón Xuân tươi vui.
TÂM BÌNH THƯỜNG LÀ ĐẠO
(Xuân Ất Sửu – 1985)
Triệu Châu hỏi đạo. Nam Tuyền đáp: “Bình thường tâm thị đạo”.
- Có thể nhằm tiến đến chăng? Nghĩ nhằm tiến đến là sai.Không nghĩ làm sao biết là đạo?Đạo chẳng thuộc biết hay không biết. Biết là vọng giác, không biết là vô ký.
Ngay đó Triệu Châu ngộ đạo.
- Dấy niệm là động. Động là bất bình thường. Như nước gặp gió mới nổi sóng còn bình thường thì nước an lặng, tánh sáng chiếu bóng cả bầu trời. Vừa khởi nghĩ tiến đến để đạt đạo, tâm vừa dấy niệm liền động tức là mất bình thường. Tâm vừa khởi nghĩ tức là phan duyên liền mất bổn giác mà thành vọng giác. Như nước để an lặng, tánh sáng chiếu minh bạch bóng ảnh của vạn vật. Nếu dấy động, tánh sáng mất công dụng chiếu soi. Tánh Phật là bản thể của cả biết và không biết. Lúc thức, chúng ta biết sáu trần đó là vọng giác. Lúc ngủ, không biết gì là vô ký. Cả hai đều là tướng hư vọng theo duyên mà có. Thật đạt đạo là nhận ngay tánh Phật, là thể tánh giác vẫn thường còn, dù ngủ dù thức.
Thiền sư Đạo Ngộ được một đệ tử bán bánh bao mỗi ngày cúng dàng vài chiếc. Một hôm Ngài trả lại phân nửa. Đệ tử ngạc nhiên: Sao Thầy cho lại con để làm gì?
- Ta cho lại ngươi thì có lỗi gì?
Anh hàng bánh băn khoăn: Bánh cúng thì hưởng phước. Đó là chuyện cho đi đổi lại. Nay ta nên đem cả thân tâm cúng dàng. Liền xin xuất gia, được pháp danh Sùng Tín. Thầy giao ước: “Làm thị giả ta, ta sẽ chỉ tâm yếu”. Sư làm thị giả ba năm, chẳng thấy Thầy đả động gì đến tâm yếu. Không nhẫn nổi nữa, Sư thưa hỏi.
Đáp: Từ ngày ngươi vào đây, ta chưa từng không chỉ dạy tâm yếu.
- Thầy chỉ dạy bao giờ? Ngươi dâng trà, ta vì ngươi mà tiếp; ngươi bưng cơm, ta vì ngươi mà nhận; ngươi xá lui, ta vì ngươi gật đầu. Có lúc nào ta không chỉ dạy tâm yếu?
Sùng Tín cúi đầu suy nghĩ. Đạo Ngộ bảo: “Suy nghĩ liền sai. Thấy thì thẳng đó liền thấy”. Sư nhận ra, hỏi cách giữ gìn. Thầy dạy: “Mặc tánh tiêu dao, tùy duyên phóng khoáng, chỉ cần hết tâm phàm, chẳng có Thánh giải nào khác”. Đó là điểm đặc biệt.
Tất cả hành động hằng ngày của chúng ta là tướng của Tâm. Nhưng khi Sùng Tín cúi đầu suy nghĩ thì Thầy dạy thẳng: “Thấy thì liền Thấy. Suy nghĩ liền sai”. Rồi lại dạy: “Mặc tánh tiêu dao”. Phải để ý Ngài nói tánh tiêu dao chớ không phải thân thả lỏng cho tha hồ thổi sáo múa nhảy. Tánh thấy tánh nghe không bờ cõi không hạn cuộc, trong cái thênh thang không động, không nhiễm, không sanh không diệt ấy, cứ mặc đừng kèm giữ. Còn chúng ta lâu nay cứ yên chí tu là kèm giữ. Vì kèm giữ nên trái với tự tánh.
Tùy duyên phóng khoáng là tùy duyên nào đến ta cũng buông xả, không vướng bận, không phiền nhiễu. Đói thì ăn, mệt thì ngủ, tự tại bình an, vì tâm giác tỉnh không đòi không mong, không phiền không hận. Còn gặp quán rượu cũng vào bừa, thấy rạp hát liền lao vô thì đó là cuồng sĩ chớ không phải là tiêu dao phóng khoáng. Vận động suốt ngày, gặp việc là làm, quét nhà thổi cơm, gánh nước bổ củi, thân quần quật mà tâm vẫn thênh thang phóng khoáng; không đòi phải đóng cửa thất, tịnh khẩu, thời khóa công phu, mà tùy duyên lợi chúng.
Chủ yếu là hết tâm phàm, đoạn hết vọng tưởng điên đảo tức là giải hết nghiệp, thoát luân hồi sanh tử. Hết những thứ này thì chính tâm ta là Thánh, không phải cầu chi khác nữa.
Triệu Châu hỏi đệ tử: Ăn cháo xong chưa?
- Thưa xong. Rửa bát đi!
Ngay đó ông Tăng ngộ.
Dược Sơn hỏi Sadi Cao: Ta nghe Trường An rất náo loạn phải chăng?
- Cõi con an ổn. Ngươi do xem kinh được hay thưa hỏi được? Chẳng do xem kinh được cũng chẳng do thưa hỏi được. Có lắm người chẳng xem kinh cũng chẳng thưa hỏi mà sao chẳng được? Chẳng nói họ không được. Chỉ vì họ không chịu thừa nhận.
Động do nhiều tiếng, xôn xao là người. Còn cái thấy cái nghe không não loạn nên Sadi đáp: “Cõi con an ổn”. Đây là để thí nghiệm người luôn luôn nhớ đến mình, hằng nhớ không quên. Đó là người thường sống với cái thật. Cái nghe cái thấy đâu phải do xem kinh hay nghe pháp mà được. Đây là cái mình vẫn sẵn xưa nay, chỉ vì không chịu thừa nhận nên có cũng như không.
Tử Hồ thiền sư đồ chúng hơn 500 vị. Một hôm, giữa đêm Ngài la: “Ăn trộm! Ăn trộm!”. Chúng hoảng hốt chạy đến. Ngài chụp một người hô rằng: “Bắt được rồi! Bắt được rồi!”.
- Thưa không phải, đây là anh Mỗ Giáp!
Thiền sư dạy rằng: “Thừa đương là con, không thừa đương thì là giặc”.
Đại lão Thiền sư Viên Anh khi kể chuyện này khuyên học chúng: “Người mắt sáng hãy biết phân biệt”.
Người xưa muốn cho chúng ta thừa nhận cái thật của mình nên dùng đủ thứ phương tiện. Qua những câu chuyện kể trên thì ai chịu để ý đến ngọc báu của mình, trân trọng trở về bản giác diệu tâm, người ấy là Phật tử, là pháp khí để hưng long Tam-bảo, là chỗ nương tựa cho mười phương chúng sanh.
Ngày đầu năm mong tất cả học chúng phát tâm Bồ-đề.